Bài số 69: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
Sinh thời Bác Hồ đặc biệt dành tình thương yêu vô vàn cho miền Nam, miền đất gian khổ đi trước về sau. Bác thường bảo: “Miền Nam luôn luôn ở trong trái tim tôi”. Người cha già của dân tộc đã đi xa để lại vô vàn niềm tiếc nuối trong lòng mỗi người dân nơi đây.
- Bài học cùng chủ đề:
- Bài số 67: Khát vọng sống và cống hiến của Thanh Hải qua đoạn thơ: “Ta làm con chim hót... Dù là khi tóc bạc” (Trích Mùa xuân nho nhỏ)
- Bài số 66: Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã thể hiện khát vọng Sống như thế nào?
- Bài 64: Vẻ đẹp bức tranh mùa xuân trong sáu câu thơ đầu của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM 1
Sinh thời Bác Hồ đặc biệt dành tình thương yêu vô vàn cho miền Nam, miền đất gian khổ đi trước về sau. Bác thường bảo: “Miền Nam luôn luôn ở trong trái tim tôi”. Người cha già của dân tộc đã đi xa để lại vô vàn niềm tiếc nuối trong lòng mỗi người dân nơi đây.
Tháng tư năm 1975 khi đất nước vừa thống nhất, nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam trong dịp "về nguồn", đã xúc động bồi hồi đến Ba Đình Hà Nội để viếng lăng Bác.
Viếng lăng Bác là một dồn nén kết tinh tình cảm chân thành thương nhớ Bác không chỉ riêng của nhà thơ Viễn Phương mà còn là tình cảm lớn của hàng chục triệu chiến sĩ, đồng bào miền Nam, những người cũng như nhà thơ, tuy chưa một lần gặp Bác trong thực tế, nhưng đã nghìn lần gặp Bác trong mơ, trong hoài vọng và lí tưởng cao đẹp nhất của đời mình.
Câu mở đầu bài giản dị, chân chất nói lên được hoàn cảnh đến viếng lăng Bác của tác giả và mở ra một không khí thân mật, trang nghiêm:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Từ miền Nam là từ mảnh đất đã mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chỉ với một ước mong sớm đến ngày chiến thắng, nước nhà thống nhất để sớm được một lần gặp Bác. Giờ đây, ngày ấy đã đến thì Bác đã đi xa. Lòng ai sao tránh khỏi dạt dào bao xúc động...
Cái đầu tiên đến đây nhà thơ bắt gặp là gì?
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Cây tre từ bao đời nay chính là biểu tượng của đất nước, của con người Việt Nam với bao đức tính cao quý.
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Từ thời bình minh lịch sử của nước ta, Thánh Gióng đã nhổ tre đằng ngà đuổi sạch giặc n. Gần đây hơn, nhân dân miền Nam từ gậy tầm vông cũng họ nhà tre làm nên
Đồng khởi chiến thắng vang dội cả địa cầu. Bởi vậy, cây tre là hình ảnh tiêu biểu sinh động cho tinh thần bất khuất, chí khí anh hùng của dân tộc ta:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão tố mưa sa đứng thẳng hàng
Trên cái nền hàng tre trong sương cội nguồn dân tộc vừa nói, nhà thơ tả lăng Bác với những đoàn người nườm nượp đến viếng ngày ngày với một lòng tôn kính đặc biệt:
Ngày ngày mặt trời đi qua trong lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Mặt trời trên lăng là mặt trời của trời đất, tự nhiên. Mặt trời trong lăng chính là trái tim của Bác, người đã dành trọn cả đời mình cho dân cho nước. Cách so sánh ở đây thật sinh động, tự nhiên và nhuần nhuyễn. Bằng lối ẩn dụ, Viễn Phương đã cho thấy Bác Hồ là vầng thái dương rạng rỡ không những soi tỏ đường chúng ta đi mà luôn sưởi ấm trái tim của mỗi con người Việt Nam chúng ta nữa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ, kết tràng hoa vừa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Cuộc đời của dòng người bất tận này đã nở hoa dưới ánh sáng mặt trời Bác. Những bông hoa tươi thắm ấy đang tiến dâng lên Người.
Khổ thơ tiếp theo là hình ảnh của Bác trong lăng, khi nhà thơ bước vào được thấy:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Ở đây là một so sánh ngầm đầy thú vị. Cuộc đời Bác như mặt trời, giấc ngủ Bác như vầng trăng. Bác trở nên bất tử, hòa nhập với trời xanh. Các hình ảnh vĩnh hằng kì vĩ mặt trời, vầng trăng, trời xanh nối tiếp nhau trong bài thơ cho thấy cái mãi mãi, cái vô cùng cao cả ở một con người. Ở đây, lại có sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm. Lý trí thì biết “trời xanh là mãi mãi” còn tình cảm thì “mà sao nghe nhói ở trong tim”, đủ thấy được nỗi tiếc thương sự mất mát không gì bù đắp được trong lòng ai.
Khổ thơ cuối liền mạch với cảm xúc dào dạt của tác giả, là một niềm lưu luyến dâng lên. Tuy còn đứng bên Bác, nhà thơ đã bịn rịn nghĩ đến phút chia xa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Tình cảm ở đây chân thành và bộc trực xiết bao. Câu thơ không chút gì chải chuốt. Vậy mà đọc lên không thể nào không xúc động.
Kết thúc trọn vẹn bài thơ là ước vọng thành kính của tác giả nhưng cũng là ước nguyện chung của bất cứ một người Việt Nam nào:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...
Khép lại bài thơ là hình ảnh cây tre, hình ảnh đã xuất hiện từ đầu thật là tự nhiên. Đúng như là nhận xét của Đức Thảo: từ hàng tre khách kể ở bên trên đã tan hòa vào cây tre là chủ thể ở cuối bài.
Viếng lăng Bác là một bài thơ hay về Bác của nhà thơ Viễn Phương. Tuy mộc mạc, giản dị nhưng sự thật những bài thơ không những giàu hình ảnh mà còn giàu chất suy tưởng, chất lãng mạn trữ tình đằm thắm, cộng với nghệ thuật luyến láy ngôn từ của tác giả làm nên sức gợi cảm sâu lắng, không dễ chi quên...
BÀI LÀM 2
Trong số những bài thơ viết về Bác sau ngày Bác đi xa, Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót xa và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng cảm xúc chân thành, thiết tha, sâu lắng và giọng điệu vừa tha thiết, vừa trang nghiêm.
Từ mảnh đất miền Nam mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ, tác giả làm cuộc hành hương về đất Bắc. Lòng bồi hồi xúc động, anh tìm đến Ba Đình:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Đoạn thơ mở đầu thiêng liêng thành kính nhưng vẫn gợi một không khí ấm áp gần gũi không chỉ ở cách xưng hô “con” mà còn ở cách dùng từ mang ý nghĩa giảm nhẹ. Nhà thơ không nói ra "viếng" mà là ra "thăm", như con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ vẫn chan chứa ngậm ngùi. Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng đậm nét với tác giả là hình ảnh hàng tre trong sương sớm, trải dài, bát ngát một màu xanh, khiến cho lăng Bác trang nghiêm bỗng trở nên thân thuộc, gần gũi như xóm làng Việt Nam. Hình ảnh hàng tre “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” là hình ảnh thực nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc - biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục của nhân dân Việt Nam. Cuối bài thơ, hình ảnh hàng tre còn được lặp lại với ý nghĩa cây tre trung hiếu. Đó cũng là một phẩm chất tiêu biểu của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cách kết cấu như vậy gọi là kết cấu đầu cuối tương ứng, làm đậm nét hình ảnh, gây ấn tượng sâu sắc và cảm xúc được nâng cao lên.
Hình ảnh đó như khúc dạo đầu mở ra một loạt những suy tưởng mênh mông, sâu lắng:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
“Mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ chỉ Bác Hồ, mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống. Còn mặt trời Bác cũng là ánh sáng soi đường đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Mặt trời Bác tỏa sáng, ấm áp, sánh đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là một sáng tạo riêng của tác giả. Cách nói vừa ca ngợi sự vĩ đại, bất tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác. Tất cả tình cảm đó đặt thành ý thơ tuyệt đẹp:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Điệp ngữ “ngày ngày” và hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ ” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Tình cảm đó kết thành tràng hoa đẹp dâng lên 79 mùa xuân Bác kính yêu. Đây là một ẩn dụ đẹp và rất sáng tạo, thể hiện sâu sắc những tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhân dân đối với Bác. Nhịp thơ chậm rãi, dàn trải, cấu trúc câu và từ ngữ được lặp lại gợi liên tưởng đến những bước đi chầm chậm của dòng người vào lăng viếng Bác trong không khí thiêng liêng, thành kính và niềm cảm xúc thiết tha.
Đứng trước di hài Bác, bao tình cảm ấp ủ bấy lâu bỗng trào dâng thổn thức:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Trời xanh”, “vầng trăng” là những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn. Bác vẫn còn mãi với non sông, Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước. Sự nghiệp của Người là bất tử. Dù tin như vậy nhưng trái tim vẫn nhói đau khi nghĩ rằng Bác không còn nữa. Nỗi đau được biểu hiện cụ thể, trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim! ”. Đó là nỗi đau, là niềm thương vô hạn của đứa con về muộn bên di hài người cha yêu kính. Dường như nỗi đau quá lớn khiến cho những hình ảnh ẩn dụ trở nên không còn ý nghĩa, chỉ có cách diễn tả trực tiếp tâm trạng mới có thể giúp nhà thơ giãi bày tình cảm của mình.
Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ vỡ òa thành nước mắt được thể hiện ở khổ thơ cuối:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Khổ thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ được mãi mãi ở bên Bác. Đã đến giờ phút phải chia tay, tác giả chỉ có thể biểu hiện tấm lòng mình bằng ước muốn hóa thân thành con chim cất cao tiếng hót, đóa hoa tỏa hương đâu đây, cây tre và nhất là muốn làm cây tre trung hiếu để canh giữ, điểm tô cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ và có thể mãi mãi ở bên Bác. Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng đậm nét thể hiện lòng kính yêu và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác. Điệp ngữ “muốn làm”, cấu trúc câu được lặp lại tạo thành nốt nhạc dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng trào dâng mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Như vậy bước chân ra đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam thì ở lại. Tiếng lòng đó, ước nguyện đó không chỉ là của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người.
Viếng lăng Bác là bài thơ giàu chất suy tưởng, chất trữ tình đằm thắm và sử dụng nhiều luyến láy ngôn ngữ, phong phú âm điệu khiến bài thơ mau chóng được đông đảo bạn đọc tiếp nhận. Chính vì vậy nó đã sớm được phổ nhạc và trở thành một bài ca sâu lắng, giàu sức truyền cảm và quen thuộc với mỗi người Việt Nam.
BÀI LÀM 3
Viết về tình cảm miền Nam với Bác, Bác với miền Nam nhà thơ Tố Hữu đã có những câu thơ rất giản dị nhưng vô cùng gợi cảm:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha ”
Còn Viễn Phương - một người con miền Nam khi viết về tình cảm ấy lại bắt đầu từ cảm xúc được Viếng lăng Bác - được thăm vị cha già sau bao năm mong ngóng, đợi chờ. Cảm xúc được dồn nén, được hội tụ và được biểu đạt thành những dòng thơ bồi hồi mà thiêng liêng, thành kính. Viếng lăng Bác - một nén hương thơm của miền Nam ruột thịt dâng lên Bác.
Trước hết, đọc bài thơ Viếng lăng Bác, người đọc cảm nhận được cảm xúc chân thành, xúc động, sâu sắc của Viễn Phương khi nhìn thấy lăng Bác. Từ miền Nam sau bao năm khói lửa, nơi đi trước về sau, nay lần đầu tiên nhà thơ được đặt chân lên mảnh đất Ba Đình lịch sử, viếng lăng Bác. Ngay từ đoạn mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã thể hiện cảm xúc dạt dào khi nhìn thấy hàng tre quanh lăng Bác:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Từ cuộc đời bước vào thơ ca, tre trở thành gần gũi và thân thiết, đến thơ Viễn Phương tre vẫn luôn là loài cây quen thuộc trước lăng Bác, tre như dài rộng mênh mông. Tre vẫn uy nghi, vẫn xanh màu xanh Việt Nam. Hàng tre ấy gợi cho nhà thơ thấy lại cuộc sống thầm lặng đã từng sát cánh bên Bác chống kẻ thù chung. Tre đã kiên cường chiến đấu bất khuất hiên ngang là biểu tượng của dân tộc Việt Nam.
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Bao năm cùng người xông pha trận mạc, tre vẫn uy nghiêm:
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Viễn Phương thật thành công khi sử dụng hình ảnh hàng tre để gợi sự gần gũi, thân quen của lăng Bác. Lăng Bác như bóng dáng quê hương, ở giữa tre, trong tre mà Viễn Phương không khỏi thốt lên:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam.
Chỉ với từ cảm thán Ôi mà bao cảm xúc nghẹn ngào, tràn ngập cả câu thơ. Tất cả dân tộc đã về vây quanh Bác xếp thành đội ngũ chỉnh tề giữ giấc ngủ bình yên cho Người, Tình cảm chân thành của Viễn Phương hay cũng chính là của người dân Nam Bộ dành cho Bác chân thành, cảm động:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Vâng! Đó là tình cảm chân thành nhất, thành kính nhất mà Viễn Phương hay cũng chính là của dân tộc Việt Nam dành cho Bác. Nhìn hình ảnh dòng người vào lăng Bác nhà thơ đã rung động mạnh mẽ. “Tràng hoa” ấy là tấm lòng người dân Việt Nam dành cho Người. Mỗi con người trên đất nước nguyện làm một bông hoa trong tràng hoa ấy dâng lên cuộc đời Bác - bảy mươi chín mùa xuân. Quan hệ tình cảm giữa một vị lãnh tụ và nhân dân được diễn tả thân mật giản dị mà tinh tế khiến người đọc cảm động và càng trân trọng sâu sắc.
Sâu sắc, cảm động hơn, tình cảm mà Viễn Phương dành cho Bác thật mãnh liệt khi vào lăng viếng Bác.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Tác giả xưng con với Bác như một sự gần gũi thân quen trong gia đình. Đó là tình cảm sâu sắc, giản dị của một người con đối với Cha, với người lớn tuổi. Các nhà thơ như Xuân Diệu, Tố Hữu... khi viết đều xưng con với Bác:
Người không con mà có triệu con
(Nguyễn Đình Thi)
Nhưng con ở miền Nam của Viễn Phương lại mang sắc thái riêng biệt mới, xúc động thành kính vì đó là nơi Bác hằng mong nhớ.
Thơ cứ trôi đi trong dòng cảm xúc kì lạ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Nhà thơ đã dùng hình ảnh ẩn dụ mặt trời để thể hiện công đức của Bác - Bác là mặt trời chân lí cách mạng, là ánh hào quang rạng sáng soi đường dân tộc, là nắng luôn tươi tắn cho hoa cỏ sinh sôi kết trái. Bác đã đưa nhân dân ta từ nô lệ bước lên cuộc sống tự do. Đồng thời, hình ảnh ấy còn thể hiện sự trường tồn của Bác trong lòng dân tộc - Bác là nguồn sống. Đó quả là một hình ảnh đẹp, mang ý sáng tác mới sâu sắc mà tinh tế, giản dị mà cảm động. Trong cái cảm xúc trào dâng mạnh mẽ ấy, sự tôn kính Bác lại được thể hiện rõ nét:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vần biết trời xanh là mãi mãi...
Vầng trăng... trời xanh... các hình ảnh đẹp đẽ rộng lớn nối tiếp nhau xuất hiện, khiến ta phải suy ngẫm. Ngẫm về cái bất diệt, cái vô cùng của vũ trụ đến cái bất diệt, cái vô cùng cao cả ở một con người.
Nhà thơ nhìn thấy Bác - vị cha già dân tộc nằm thanh thản trong giấc ngủ, trong ánh sáng dịu hiền như vầng trăng. Nhưng vầng trăng ấy là vầng trăng lí tưởng, là hình ảnh tượng trưng bằng tất cả cảm xúc yêu kính đối với Bác. Viễn Phương đã thật thành công khi diễn tả dòng cảm xúc này, giữa thực và ảo, giữa lí trí và thực tế. Viễn Phương không khỏi đau nhói trước sự thật Bác đã đi xa.
Trong tâm lí của con người Nam Bộ đã có sự thay đổi, tình cảm ấy chân thành và xúc động nhất, là tình cảm của bao người từng khóc ròng rã để tặng Bác năm xưa đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa. Nhà thơ đang thay cho toàn dân tộc thắp dâng lên Người nén nhang thành kính.
Nhưng cuộc vui nào cũng có lúc phải chia tay. Thời gian ở bên Bác thật ngắn ngủi, nhà thơ phải trở về miền Nam. Và đây cũng là dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao nhất, tuôn trào mạnh mẽ nhất:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Câu thơ như lời nói thường, không cần dùng đến kĩ thuật. Giọng thơ không ồn ào, thế mà đọc lên thấy xúc động. Trước hết bởi cách nói, cách bộc lộ có một cái gì rất Nam Bộ: chân thành, bộc trực mà không thô. Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam - những người con ở xa - bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn, người đọc đồng cảm với nhà thơ, với nỗi thương nhớ, xót xa ân hận khi đứng trước linh cữu của Người nào phải của riêng ai!
Cả cái ước nguyện chân thành ở cuối bài thơ cũng không của riêng ai:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Điệp ngữ “Muốn làm” như lớp sóng dồi khẳng định sự thủy chung của nhà thơ đối với Bác. Hình ảnh cây tre lại đến, thật tự nhiên nhuần nhị để khép bài thơ lại, song không còn là hàng tre, khách thể ở trên, mà đã tan hòa vào chủ thể. Nhà thơ nói cho mình, cũng là nói cho ý nguyện của mỗi chúng ta: muốn được hóa thân làm cây tre ở mãi bên Bác.
Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ. Bài thơ khép lại nhưng đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Bài thơ thể hiện tình cảm chân thành, thành kính thiêng liêng của tác giả dành cho Bác đồng thời cũng là tình cảm của toàn dân tộc dành cho Bác. Để mỗi chúng ta càng thêm yêu kính Bác, sống và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Bài thơ kết thúc trong sự xa cách về không gian - nhưng lại rất gần trong tâm thức. Người con ấy phải trở về miền Nam nhưng lòng ở lại, hiện hữu trong hương hoa thơm ngát, trong tiếng chim hót bên lăng, trong hàng tre trung hiếu, nghĩa là luôn ở bên Bác và Bác cũng luôn ở giữa lòng miền Nam.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9