Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Chính Cách mạng tháng Tám kỳ diệu và cuộc sống mới sau Cách mạng đã mang tới cho ông một cái nhìn ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy niềm tin vào con người, con người trong sự giao cảm với đất trời, vũ trụ. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của. ông là một minh chứng về điều đó.

BÀI LÀM 1

Huy Cận là một nhà thơ của tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm, cũng giống như người bạn thơ gần gũi nhất của ông “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần - Chân hóa rễ để hút màu dưới đất” (Xuân Diệu). Có khác chăng, một nét thường thấy trong thơ ông là cảm xúc về cuộc sống, về con người luôn gắn với cảm xúc về vũ trụ, dường như ông muốn tìm câu trả lời về ý nghĩa, sự tồn sinh của con người, trong vũ trụ bao la, huyền bí, khôn cùng. Trong thơ ông trước Cách mạng tháng Tám, cảm nhận đó thật cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng, bơ vơ qua qua hình ảnh một cành củi khô, những cánh bèo dập dềnh, trôi nổi không biết về đâu giữa một không gian “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót - Sông dài, trời rộng bến cô liêu” qua hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc - Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa” (“Tràng giang”). Chính Cách mạng tháng Tám kỳ diệu và cuộc sống mới sau Cách mạng đã mang tới cho ông một cái nhìn ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy niềm tin vào con người, con người trong sự giao cảm với đất trời, vũ trụ. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của. ông là một minh chứng về điều đó.

Bài thơ ra đời năm 1958 trong nguồn mạch cảm xúc biết bao yêu thương, về một cuộc sống “mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc, những người thật hào hứng, phấn khởi, say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới. Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ, huy hoàng, vừa hùng vĩ, đầy sức sống:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Điểm nhìn của nhà thơ ở đây là điểm nhìn tưởng tượng, phải ở rất xa bờ mới thấy được vùng biển phía Tây, nơi mặt trời đang lặn xuống giống như một hòn lửa rực cháy khổng lồ - cảnh này chỉ có thể thấy vào một buổi chiều hè. Cảm quan vũ trụ của nhà thơ mở ra trong trí tưởng tượng người đọc những liên tưởng so sánh thật bất ngờ thú vị: Vũ trụ bao la, huyền bí như một cái nhà khổng lồ mà đêm tối là cánh cửa sập xuống và những con sóng chạy ngang trên biển là những chiếc then cài. Cái quang cảnh kết thúc thật kỳ vĩ, tráng lệ của một chu kỳ thiên nhiên ấy lại là sự mở đầu “một ngày” lao động mới của con người:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Từ “lại” cho thấy đây chỉ là sự tiếp diễn nhịp điệu lao động của họ, cảnh ra khơi khi hoàng hôn xuống này diễn ra thường xuyên trong nhiều đêm. Và trên “con đường mòn” vô hình mà xiết bao thân thuộc ấy, cũng như mọi lần, tiếng hát họ vút cao, vang xa trên sóng nước mênh mông, ở đây "buồm căng" là có (thật vì gió mạnh trên biển khơi), những “câu hát căng buồm” lại là hư ảo. Tuy vậy chính cái hư ảo ấy lại biểu hiện được một cái có thực, đó là khí thế mạnh mẽ của con người trong lao động tập thể. Tiếng hát chính là sự thể hiện niềm vui của những người đánh cá, khi họ cảm nhận rõ ràng sức mạnh vĩ đại của tập thể trong lao động, sức mạnh ấy sẽ tạo ra những điều kỳ diệu mà một vài cá nhân đơn lẻ không thể làm được. Chỉ một tiếng, hát thôi mà nói được bao điều về thân phận, về sự tự ý thức của con người qua hai chế độ. Cũng không còn nữa cái cảm nhận từ nghìn xưa về sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước biển cả bí ẩn, chứa đầy sức mạnh tàn phá, hủy diệt vô cùng dữ dội. Tiếng hát của họ là tiếng hát của từng con người chinh phục biển khơi:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Biển cả thật đẹp đẽ, giàu có và thân thiết biết bao đối với con người. Trong câu thơ thứ nhất, từ “bạc” là một định ngữ nghệ thuật, có ý nghĩa số lượng cá nhiều, phong phú, tạo nên sự giàu có, quý giá của biển. Cái giàu có đó còn được cụ thể hóa ở câu thơ thứ hai. Hình ảnh so sánh rất đẹp này được xây dựng trên một liên tưởng thực tế: cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên mặt biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửi dệt vải. Từ đó mới hiểu được hai câu thơ sau là những nhân hóa rất tinh tế. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển và cá dệt biển và cá vào lưới là cá dệt lưới. “Đến dệt lưới ta”, bắt đầu từ đây từ “ta” sẽ vang lên đầy tự hào, kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như những ngày xưa nữa mà là cái ta tập thể đầy sức mạnh, trong đó có sự nhân lên đến vô hạn tiềm lực của mỗi cá nhân. Dường như đó mới là sức mạnh chính tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền đang lướt giữa trùng khơi:

Thuyền ta lái gió buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Đoàn thuyền đánh cá như đi trong sự vây bọc, nâng đỡ của thiên nhiên đầy yêu thương, gắn bó. Biển cả bao la mà êm ả, hiền hòa; gió như người bạn thân thiết lái con thuyền ra khơi gió thổi phồng căng cánh buồm giống như vầng trăng khuyết; trời mây như cũng cao hơn, thoáng đãng hơn, tất cả được nhìn với con mắt chan chứa tình yêu thương của những con người đã giành được quyền làm chủ trời biển quê hương. Cảnh phóng khoáng, thoáng rộng bởi con người sảng khoái, tự do. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, kỳ vĩ bao nhiêu thì càng tôn vẻ đẹp của con người lên bấy nhiêu. Tầm vóc của họ vụt lên cao sánh ngang với trời biển, vũ trụ. Đoàn thuyền, hay cũng chính là những con người đi giữa cái bao la, hùng vĩ của biển và trời - cảnh thực mà đẹp như trong mơ. Động từ “lướt” cho thấy đoàn thuyền chạy rất nhanh và rất nhẹ nhàng trên mặt biển, nó càng biểu hiện rõ hơn khí thế của những người lao động đang thực sự làm chủ cuộc sống mới. Họ được tự do, chủ động tìm đến những vùng biển xa (ra đậu dặm xa) để thăm dò nơi nào nhiều cá dò bụng biển. Cũng chính tư thế làm chủ khiến họ có được quyết tâm cao độ và khí thế chuẩn bị lao động mạnh mẽ như trong chiến đấu (Dàn đan thế trận lưới vây giăng).

Huy Cận không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mỹ mà còn phong phú về vốn sống. Bài thơ cho thấy ông hiểu biết khá tường tận công việc của những người đánh cá, ông cảm nhận được những gì đang diễn ra trong tâm hồn những con người hồn hậu, bình dị và rất đáng yêu mến ấy. Đoàn thuyền đã tìm đúng "bãi cá" lưới đã buông xuống. Những người đánh cá nghĩ gì trong những giây phút đợi chờ ấy? Đây là cảnh thực hay là tưởng tượng?

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đèn hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long

Đúng ra ở đây có sự pha trộn cả thực tế và ảo mộng, làm cho biển đêm có vẻ đẹp thật lãng mạn, huyền ảo. Những con cá song lấp lánh như những ngọn đuốc hồng giữa biển đêm thăm thẳm. Họ như đã nhìn thấy cái đuôi cá song quẫy chẳng khác gì mảnh trăng vàng lóe sáng trên mặt biển. Hình ảnh thật nên thơ ấy cùng với cách gọi cá là “em” biểu hiện niềm say mê cuộc sống thật hồn nhiên và mãnh liệt của những người đánh cá, và trước hết là của nhà thơ. Nhà thơ mở rộng hồn mình để đón nhận bao vẻ đẹp kỳ diệu của cuộc sống, để cảm thấy nhịp thơ của biển đêm qua những đợt sóng dâng lên và hạ xuống đầy ánh sao. Biển và trời như đã hòa vào nhau và hình thành con người càng hiện lên đẹp đẽ biết bao giữa cái vũ trụ lung linh ấy. Một lần nữa tiếng hát của họ lại cất lên giữa bao la trời nước:

Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Có biết bao âu yếm và thân thiết với biển khơi, với vũ trụ mênh mông, huyền diệu trong tiếng hát ấy. Tiếng hát còn biểu hiện niềm vui trong lao động tập thể của họ, biểu hiện niềm mong muốn của họ sẽ đánh bắt được thật nhiều cá để làm giàu cho Tổ quốc. Cảm xúc của họ thật phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm yêu đời, họ lao động khẩn trương, luôn tay gõ nhịp dồn cá vào lưới mà vẫn không quên vẻ đẹp của biển cả, trăng gió, trời mây, vầng trăng trên trời cao bao la được nhân hóa trở nên gần gũi, thân thiết; trăng như đồng cảm với tâm trạng của con người, trăng gõ nhịp cho tiếng hát của họ. Đó thật sự là một bài ca lao động vừa hào hùng vừa giàu chất thơ. Và bài ca say đắm nhất là bài ca về sự giao hòa xiết bao thân thiết, ưu ái giữa con người và biển cả. Biển cho ta cá như lòng mẹ" - một so sánh thật đẹp: lòng biển bao la như lòng mẹ, nguồn tình cảm yêu thương vô hạn đã nuôi dưỡng mỗi con người. Biển không chỉ đẹp đẽ giàu có mà còn rất ân tình; biển không chỉ nuôi dưỡng con người hôm nay và mai sau; mà biển đã “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”, từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất Biển và ta thêm một lần nữa tầm vóc những người đánh cá vụt lớn cao hơn, và càng gắn bó với biển cả yêu thương.

Nhưng đêm sắp tàn rồi, một ngày mới đang đến.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vấy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng.

Khổ thơ gợi hình dung một bức họa thật khỏe, đẹp. Câu chữ gân guốc, giàu sức tạo hình: “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Chỉ một từ “xoăn” mà vừa tả được những bắp tay rắn chắc nổi cuồn cuộn khi kéo lưới, vừa nói được cái hăm hở, hồ hởi của những người lao động mong muốn thấy được kết quả công việc của mình. Và lưới rất nhiều cá, đúng với niềm mong muốn, ước ao của họ. Câu thơ thứ ba miêu tả thật đẹp hình ảnh những con cá đang được kéo từ biển lên; vẩy, đuôi của chúng lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Ở những từ "bạc", "vàng" vừa là những định ngữ thông thường chỉ màu sắc, vừa là những định ngữ nghệ thuật tượng trưng cho sự quý giá, giàu có của biển cả, đồng thời cho thấy thái độ trân trọng của những người đánh cá đối với thành quả lao động của mình, dường như đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng ưu ái của biển cả đối với con người. Công việc đã kết thúc tốt đẹp, họ chuẩn bị trở về. Những từ “đón ánh hồng” biểu hiện tâm trạng sảng khoái, phấn chấn của họ; họ như muốn chia sẻ niềm vui của mình với ánh bình minh, với mặt trời - một người bạn thiên nhiên cũng rất thân thiết với con người.

Hay nhất trong toàn bộ bài thơ là khổ thơ cuối cùng, miêu tả đoàn thuyền đánh cá trở về trong ánh bình minh. Bốn câu thơ dựng lên một quang cảnh kì vĩ về cuộc chạy đua giữa đoàn thuyền đánh cá với mặt trời trên biển cả, qua đó thêm một lần nữa Huy Cận khắc họa thật đậm nét vẻ đẹp khỏe mạnh của những người đánh cá và vẻ đẹp giàu có, hùng vĩ của biển trời, của thiên nhiên Tổ quốc. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca, anh hùng ca trong lao động.

Mở dầu là một câu thơ lặp lại gần nguyên vốn câu cuối trong khổ thơ thứ nhất:

Câu hát căng buồm với gió khơi,

Có cảm giác đó là điệp khúc trong một bài hát, bài hát ca ngợi niềm say mê lao động trên biển quê hương. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên, có khác chăng tiếng hát ở đây biểu hiện rõ hơn niềm vui của những người đánh cá khi họ thu được kết quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả, đó là niềm vui chiến thắng của con người khi thêm một lần nữa họ cảm nhận được sức mạnh vĩ đại, kỳ diệu của tập thể. Tiếng hát ấy vang lên say sưa, hùng tráng trên đoàn thuyền đang băng băng rẽ sóng trở về:

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Hình ảnh hào hùng của câu thơ này là một nhân hóa mang tính chất ngoa dụ, những người đánh cá thức suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng họ vẫn quyết tâm trở về trước khi trời sáng. Động từ “chạy đua” cho thấy sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế lao động của họ vẫn mạnh mẽ, đó thật sự là khí thế của những con người tự do, những chủ nhân chân chính của cuộc sống mới. Họ chạy đua với thời gian, chạy đua với một đối tượng thiên nhiên thật hùng vĩ là mặt trời, cái đích của cuộc chạy đua là bình minh. Đặt trong sự tương ứng với một đối tượng hùng vĩ như thế, sức mạnh của đoàn thuyền đánh cá, cũng là của những người đánh cá, càng được thể hiện nổi bật hơn. Câu thơ cũng nâng cao tầm vóc của con người trước vũ trụ rộng lớn, bao la.

Vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của bình minh trên biển được miêu tả thật gợi cảm, sinh động ở câu thơ thứ ba:

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Nhân hóa này gợi cảm giác thần thoại, hư ảo: Sức mạnh của mặt trời thật vô cùng mạnh mẽ, dường như nó đang đội biển mà lên. Câu thơ làm toàn cảnh thiên nhiên sáng lên với màu mới, màu hồng của bình minh; và cái màu hồng rực rỡ tươi vui, đầy sức sống ấy chính là lời chào đón ân cần, thắm thiết của thiên nhiên với những người lao động cần cù, có nghị lực phi thường. Và “cái thần” của quang cảnh bình minh ấy là câu thơ cuối cùng:

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Câu thơ có thể gợi ra hai hình ảnh trong liên tưởng của người đọc. Một là hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào cũng cá đầy khoang, hàng triệu triệu mắt cá phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ, lấp lánh huy hoàng trên biển cả một vùng biển rộng. Hai là hàng triệu triệu gợn sóng cũng phản chiếu ánh bình minh rực rỡ giống như vô vàn mắt cá trên muôn dặm khơi. Dù là hình ảnh nào thì câu thơ cũng thể hiện được vẻ đẹp bao la, hùng vĩ, và sự giàu có, phong phú của biển cả, của thiên nhiên đất nước dưới con mắt của những con người được thực sự làm chủ biển trời Tổ quốc của mình.

Có thể nói, chính niềm tin yêu nồng nhiệt với cuộc sống mới, với những người lao động mới, chính khả năng suy tưởng sâu sắc trong cảm quan vũ trụ đã dẫn tới thành công của Đoàn thuyền đánh cá. Đây là một trong số không nhiều bài thơ hay viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội.

BÀI LÀM 2

Trước đây nửa thế kỷ, khi mới cầm bút, nhà thơ Huy Cận trình làng bài Tràng giang với khổ thơ đầu rất đặc sắc:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng...

Giữa cái mênh mông, rộng dài của sông nước, con thuyền và cành củi khô - biểu tượng cho kiếp sống của con người - trôi xuôi, bơ vơ, vô định. Trước cái bơ vơ vô định ấy, thi sĩ đã bâng khuâng thương mình, thương người, muốn chia sẻ tâm lòng “sầu trăm ngả” tới bạn đọc. Từ ấy trở đi, hình tượng thơ: “con người” và “vũ trụ” trở thành một nét riêng trong thi pháp thơ Huy Cận. Đến năm 1958, nét riêng ấy lại hiện lên thật rõ ràng trong bài Đoàn thuyền đánh cá.

Hình ảnh: “đoàn thuyền” - (những ngư dân) và “vũ trụ” - (mặt trời, biển cả, gió khơi, trăng sao...) song hành, lung linh rực rỡ từ chữ đầu đến chữ cuối bài thơ:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Biển hoàng hôn - mặt trời lặn, như “hòn lửa” bị nhúng nước. Sóng cộn lên, cài chặt then, nhốt ánh sáng bằng một động tác "sập cửa" mau lẹ. Đêm bao trùm. Vũ trụ đẹp một vẻ huyền bí, mênh mang đầy thách thức. Vậy mà con người - những ngư dân - không ngại ngần, e sợ. Xưa kia, khi đất nước chìm đắm trong bóng đen xâm lược, con người thấy rợn ngợp, hãi hùng trước cái rộng lớn bao la của vũ trụ. Ngày nay, đất nước được giải phóng, con người được làm chủ, thì vũ trụ, thiên nhiên trở thành nơi đi tới để thử thách, để khai phá:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn thuyền ngư dân ào xuống, đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát. Nhà thơ không ghi âm mà chỉ miêu tả, miêu tả bằng ẩn dụ “câu hát căng buồm...” , nhưng người đọc vẫn nghe văng vẳng những tiếng hát, vẫn thấm thía những niềm vui và quyết tâm lao động của con người.

Niềm vui và quyết tâm tràn ngập không gian, vũ trụ, đánh thức tất cả. Họ gọi cá như bạn bè gọi nhau: “cá nhụ, cá chim, cùng cá đé...” Họ gọi biển, tiếng gọi trìu mến của con gọi mẹ. Rồi họ gõ thuyền, thả lưới, kéo lưới... Những cánh tay xoăn chắc cuồn cuộn sức người, sôi nổi hào hứng như trong một trận chiến đấu vậy. Gió khơi, biển cả, nhất là trăng sao những vùng sáng thay thế mặt trời - tất cả đã hiệp đồng để động viên, giúp đỡ con người. Vũ trụ không đối lập mà trở thành bè bạn thân thương của con người, đền đáp công sức con người một cách xứng đáng.

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông

Vẩy cá, đuôi cá bắt ánh sáng, lóe sắc vàng, sắc bạc, hay chính là bạc vàng trong kho trời vô tận thưởng công cho con người? Tài sử dụng ngôn từ, phép liên tưởng, ví von cùng với tình cảm mê say, hào hứng của nhà thơ đã hòa nhập với cuộc sống, đem lại cho thơ những hình ảnh thật thú vị!

Thú vị hơn nữa là khung cảnh rạng đông rực rỡ khi đoàn thuyền hát khúc khải hoàn, về bến:

Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Đoạn thơ dựng lại cuộc đua tài tốc độ giữa đoàn thuyền và mặt trời - con người và vũ trụ. Thực ra cuộc đua ấy khởi phát ngay từ đầu bài thơ rồi. Đến nay, vào giờ phút hửng đông đẹp nhất, trường đua càng hiện rõ. Hai đối thủ cách xa nhau. Đoàn thuyền và mặt trời ở hai đầu mút của câu thơ - “Đoàn thuyền chạy đua cùng... mặt trời” - cả hai đang lướt tới, cùng vượt lên hối hả. Ai sẽ thắng? Con người cất cao tiếng hát. Còn mặt trời?

Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Thi sĩ như người trọng tài, đang nhìn đoàn thuyền (hai câu trên), chuyển sang phía mặt trời (hai câu dưới), từ mát trời nhìn lại. Đội biển nhô lên, mặt trời tới đích, thì... ôi chao, đối thủ đã tới từ lâu rồi kìa! Không thấy con thuyền nào trên nước nữa. Trang trải mênh mang muôn dặm chỉ thấy cá và... cá. Cá nhiều, ken khít, xếp dày không tách được từng con, từng loại, chỉ thấy “mắt cá huy hoàng” nhấp nháy chào mặt trời, hóa thành triệu triệu mặt trời nhỏ, hồng hào ấm áp không gian. Nghệ thuật nhân hóa và điểm nhìn linh hoạt của thơ khiến cho hình ảnh mặt trời vốn xa xôi, khắc nghiệt thành gần gũi hiền hòa. Và chân dung con người bỗng trở nên lớn lao, cao rộng. Thêm vào là cái nhịp thơ cổ điển thất ngôn, cân đối, trang trọng, toát ra một âm hưởng lãng mạn ngợi ca hùng tráng. Phải có một tình yêu sâu nặng, gắn bó lâu dài bền chặt với cuộc sống, với quê hương, đất nước, nhà thơ Huy Cận mới biểu hiện một cách thấm thía, sảng khoái đến thế niềm vui, lòng mến phục và tự hào trước thiên niên kỳ ảo, trước sức sống và bàn tay lao động của con người.

Kỷ niệm 70 tuổi đời, ngót năm chục năm tuổi làm thơ, trả lời phóng viên báo Văn nghệ về sự tâm đắc nhất trong sáng tác, nhà thơ Huy Cận nói: "Con người sống trong xã hội và sống trong vũ trụ... là thành viên của vũ trụ. Đó là hai cực của cuộc sống, hai cực của tư tưởng, hai cực của thơ..." vẻ đẹp của vũ trụ và vẻ đẹp của con người, nhất là những con người đã được giải phóng đang làm chủ cuộc đời, hòa đồng với vũ trụ, nguồn cảm hứng lớn trong thơ Huy Cận, đã tạo nên những vần thơ đẹp, làm giàu, làm đẹp thêm cho trí tuệ và tâm hồn mỗi chúng ta.

BÀI LÀM 3

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận được sáng tác ngày 4 - 10 - 1958 trong chuyến đi thực tế tại Hòn Gai, tỉnh Quảng Ninh, in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng, xuất bản năm 1958. Đó là những năm đất nước đã được hồi sinh sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo nhà thơ nhớ lại, "không khí lúc này thật vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả vùng biển, vùng than đang lao động hăng say từ bình minh cho đến hoàng hôn và cá từ hoàng hôn cho đến bình minh”. Nhà thơ muốn sáng tạo "một khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ, với niềm vui”. Đó là đặc điểm quy định nội dung và phong cách nghệ thuật của bài thơ.

Thông thường người ta lao động ban ngày, ở đây Huy Cận chọn một thời điểm lao động đặc biệt. Chính khi mặt trời lặn xuống, màn đêm phủ trùm vùng biển thì một “ngày” lao động mới của người đánh cá mới bắt đầu. Như vậy tạo được ấn tượng về một cuộc sống khẩn trương, rộn rịp ngày đêm, không lúc nào ngừng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sống đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Hai câu đầu vẽ lên cảnh hoàng hôn và đêm tối trên biển thật lộng lẫy sinh động. Mặt trời xuống biển như hòn lửa vĩ đại, báo hiệu ngày tàn. Dĩ nhiên vịnh Hạ Long ở phía đông đất nước và nếu đứng từ bờ nhìn ra chỉ thấy mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy mặt trời lặn xuống biển được. Nhà thơ có thể đang đứng phía Hòn Gai hoặc xa hơn nhìn vào phía tây mới thấy được cảnh mặt trời lặn trên biển như vậy.

Đối với Huy Cận, vũ trụ như một mái nhà, màn đêm sập xuống như cánh cửa. còn những làn sóng chạy qua chạy lại như những chiếc then cài vào màn đêm. Tất cả báo hiệu trời đã tối hoàn toàn.

Chính lúc đó, Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Chữ “lại” cho biết đây là một hoạt động thường nhật, lặp đi lặp lại mỗi ngày, chứ không phải là đột xuất cá biệt. Nhưng mặt khác, chữ “lại” còn hiểu thị ý nghĩa ngược lại, ngược chiều so với hoạt động có trước, như thể nói: trời biển đã nghỉ ngơi mà con người lại ra khơi. Ý này biểu thị mạnh mẽ tinh thần chủ động, sáng tạo của con người. Câu thơ cuối “câu hát căng buồm cùng gió khơi” gợi lên cảnh tượng càng hùng vĩ. Buồm ra khơi xa không chỉ nhờ nó căng gió biển, mà tiếng hát của người lao động cũng có sức mạnh làm căng buồm. Đoàn thuyền ra đi bởi buồm gió và buồm vui, một hình ảnh chan hòa giữa con người và vũ trụ. Tính chất hành khúc của bài thơ đã biểu hiện rất rõ trong hình ảnh và câu chữ, nhịp điệu. Bài thơ là lời ca của chính người lao động ngợi ca niềm say sưa, hứng khởi lao động của mình.

Khổ thứ hai trực tiếp thể hiện khúc ca say mê của người đánh cá:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Một khúc ca gọi cá vào lưới vui vẻ, rộn ràng. Cá bạc là loài cá cỡ nhỏ, thân bầu dục dài, dẹt hai bên, màu trắng đục, còn gọi là cá mắm mỡ, thuộc họ cá Ngãng, sống ở gần bờ tại độ sâu 30 - 60m nước. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ nhắc đến trước tiên, và là loài cá làm mặt biển lặng chăng? Khác với cá bạc là loài cá chim, cá thu là loài cá nổi điển hình của đại dương. Hàng năm chúng di cư vào gần bờ hàng đàn lớn để đẻ và vỗ béo. Chúng đi rào rào sát mặt nước như đoàn thoi, làm sóng biển chứa lân tinh nổi lên muôn luồng sáng. Lời mời gọi cuối khổ thơ mới thân thiết làm sao! Đoạn thơ cuối cho thấy nhà thơ miêu tả cực kỳ chính xác, nhưng không hề tẻ nhạt, lời thơ vẫn bay bổng trong tưởng tượng.

Khổ thứ ba vẫn tiếp tục khúc ca vui, tự hào của người chủ đất nước:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Bây giờ hình như mặt trăng đã lên, làm cho cánh buồm hòa vào ánh trăng mà trở nên to rộng với tầm cỡ vũ trụ. Gió, trăng, hình ảnh ước lệ trong thơ cổ chỉ sự thanh nhàn, ở đây đã mang một ý nghĩa hoàn toàn mới, mạnh mẽ. Thuyền lướt giữa mây cao với biển bằng cũng gợi ra một không gian bao la, phóng khoáng, còn con người thì do bụng biển, dàn trận, bủa lưới như những chủ nhân đầy sức mạnh và quyền uy.

Khổ thứ tư ngợi ca sự phong phú của biển. Biết bao nhiêu loài cá làm giàu cho quê hương. Phương thức liệt kê thích hợp với việc kể lể, những nhà thơ không lạm dụng:

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đèn hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Cá nhụ, còn gọi là cá lụ, cá lận, là thứ cá thân thon dài, dẹt bên, mình dày, dài khoảng 25 - 50 phân, thịt ngon lành. Cá chim là loài cá thân dẹt, rộng bản, thịt ngon, được xếp hàng đầu trong dãy chim, thu, nhụ, đé. Cá đé thân thon dài, chiều dài gấp 3,4 lần chiều cao thân. Đêm xuống, chúng thường nổi lên mặt nước hàng đàn cho đến rạng đông. Cá song thuộc họ cá với nhiều chủng loại, có tên gọi khác là cá rau, có loại bé chỉ dài 20 phân, lại có loại lớn nặng hàng trăm kilôgam. Màu cá song thường rực rỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm, vằn đỏ hồng như lửa. Nhà thơ thật tài tình khi nói “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng", một ẩn dụ chân thật đầy sức sống, tạo một hình ảnh hư ảo mà sau này nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Hai câu cuối là một hình ảnh hùng vĩ và lộng lẫy của biển đêm: Những chiếc đuôi cá vẫy nước làm ánh trăng lấp lánh, vàng chóe”, một thứ ánh sáng chói mắt. Và cùng với biển, thủy triều tạo thành hơi thở của đêm, đốm sao trên mặt nước cũng nâng lên hạ xuống một cách hùng vĩ.

Khổ thứ năm là lời ca ngợi biển của quê hương:

Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Nhà thơ tiếp tục bài ca gọi cá bắt đầu từ khổ thứ hai. Câu “Gỗ thuyền đã có nhịp trăng cao là một hình ảnh tinh vi. Trước đây, ở bài trăng trong tập Thời thơ, Xuân Diệu có nói tới “nhịp trăng” đang dàn những"ánh tơ xanh do gió thổi làm lay động lá cành. Ở đây, nhịp hát và nhịp gõ thuyền đuổi cá đã làm ánh trăng rung động, có cảm tưởng như trăng ở trên cao giữ nhịp cho tiếng gỗ của đoàn thuyền. Đây thực sự là bài ca lao động say xưa, hùng vĩ thơ mộng, đầy lòng biết ơn. Biển rộng mênh mông, vô tận, cho cá vô tư như lòng mẹ - một ví von thật mới mẻ và sâu sắc. Hình ảnh “Biển cho ta cá như lòng mẹ, Nuôi lớn đời ta tự thuở nào đã đem lại một khúc ân tình hòa chung trong bài trăng ca.

Khổ thứ sáu miêu tả hoạt động bắt cá để kết thúc một đêm lao động?

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng.

Đêm tàn, trời sắp sáng, sao trở nên mờ. Câu thơ thứ hai gợi lên một vẻ đẹp lao động đầy chất tạo hình, cơ bắp cuồn cuộn, dưới các bắp tay là mẻ lưới trĩu nặng cá bạc, cá vàng. Hình ảnh “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông. Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng” tạo một nên sự nhịp nhàng giữa lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Chữ “lóe” rất hay, vừa gợi ánh bình minh đến, vừa gợi sự nhảy nhót của đàn cá trong mẻ lưới. Các màu sắc bạc, vàng tạo ánh hồng, tạo cho bức tranh gam màu lộng lẫy, rực rỡ.

Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ:

Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Câu thứ nhất lặp lại câu cuối khổ một, tạo một cảm giác tuần hoàn: câu hát căng buồm đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng bây giờ thuyền về với một tư thế mới: đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã về đích trước. Khi mặt trời vừa đội biển đem màu đỏ sáng cho đất trời, thì thuyền đã về bến từ lâu, cá đã đỡ xuống phơi dài muôn dặm. Ánh nắng ban mai chỉ làm cho thành quả lao động thêm rực rỡ huy hoàng. Lại thêm một sự hòa hợp nhịp nhàng giữa con người và vũ trụ. Câu chữ khổ thơ thực tinh vi: câu “Mặt trời đội biển nhô màu mới” miêu tả chính xác chuyển động của mặt trời, một chuyển động từ từ, từ ánh sáng nhô lên, rồi mặt trời ló mặt. Mặt trời nhô lên kết thúc một đêm, hô ứng với cảnh mặt trời xuống biển như hòn lửa ở đầu bài thơ.

Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đúng là một tráng ca đẹp của người lao động ngợi ca lao động của chính mình, ngợi ca biển của quê hương giàu đẹp, ngợi ca người chủ chân chính của Tổ quốc. Bài ca đã khắc họa sự nhịp nhàng của con người với vận hành của thời khắc, với trăng, gió, sóng biển, mặt trời. Trong cảnh trời biển bao la, con người trở nên hùng vĩ, lãng mạn. Trong cảnh biển đêm, một vùng biển Tổ quốc hiện lên đẹp giàu, thơ mộng. Nhà thơ chứng tỏ một sự hiểu biết vùng biển chính xác, tinh tường, một đôi mắt quan sát tinh vi và một sức tưởng tượng bay bổng.

LUYỆN TẬP

1. Viết đoạn văn giới thiệu nội dung bố cục của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Hãy nhận xét về thời gian và không gian của chuyến ra khơi.

2. Hãy phân tích nhịp điệu, vần... và đặc biệt là 5 lần lặp từ "hát" để chứng minh nhận xét của Xuân Diệu:

“Lời thơ dõng dạc, điệu thơ cất lên tiếng hát”.

3. Phân tích những hình tượng lộng lẫy của thiên nhiên đẹp như những bức tranh sơn màu trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

4. Phân tích vẻ đẹp huyền ảo của những câu thơ sau:

Cá thu biển Đông…
…...
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơn.

5. Nêu các biện pháp tu từ được sử dụng trong 2 câu thơ sau và phân tích hiệu quả thẩm mỹ của các biện pháp tu từ đó:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)

6. Hãy tìm cái hay của câu thơ sau: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” (“Đoàn thuyền đánh cá” - Huy Cận).

7. Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn thơ:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào."
(Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá)

8. Dưới đây là câu chủ đề cho một đoạn văn trình bày cảm nhận về 1 khổ thơ trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận "Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho ta thấy một bức tranh kì thú về sự giàu có và đẹp đẽ của biển cả quê hương".

Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn theo phép lập luận diễn dịch, trong đó có một câu ghép và một câu có thành phần tình thái. (Yêu cầu xác định rõ câu ghép và thành phần tình thái).

Các bài học liên quan
Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Có ý kiến cho rằng: “Văn học cổ nước ta thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc”. Dựa vào những tác phẩm văn học cổ mà em đã học và đọc thêm trong chương trình Văn lớp 9, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Một trong những đặc điểm nghệ thuật của văn học cổ nước ta là nghiêng về tả theo cách thức có sản gọi là ước lệ hơn là tả thực những chi tiết có thực trong đời sống.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật