Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu

Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu đã phản ánh chân thực, sinh động về tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

BÀI LÀM

Tình đồng chí là thứ tình cảm rất thiêng liêng và đáng quý của những người lính. Tình đồng chí cũng là đề tài làm tốn biết bao giấy mực của các nhà văn, nhà thơ. Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu đã phản ánh chân thực, sinh động về tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ Đồng chí là bài thơ tiêu biểu viết về người lính trong thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp. Tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm rất chân thật, giản dị. Bài thơ không chỉ thể hiện cơ sở xuất phát của tình đồng chí mà còn thể hiện tình đồng chí đó trong những gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường, trong chiến đấu khó khăn.

Cơ sở của tình đồng chí xuất phát từ những con người cùng chí hướng, cùng đích là cầm súng đứng lên bảo vệ độc lập của đất nước. Không chỉ có vậy, tình đồng chí của những người lính còn xuất phát từ những người cùng cảnh ngộ, những người cùng tầng lớp nhân dân.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Tuy mỗi người ở một nơi khác nhau, người đến từ miền ven biển, đất chiêm trũng, người lại đến từ vùng trung du đất cằn nhưng họ đều có cùng xuất thân là những người dân lao động. Chính nguồn gốc mộc mạc, giản dị ấy đã kéo sát họ đến với nhau bất chấp những khoảng cách xa lạ ban đầu: đôi người xa lạ/… chúng hẹn quen nhau.

Đến với kháng chiến, họ có những giây phút gần gũi, gắn bó với nhau hơn nữa:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!

Hình ảnh "súng bên súng, đầu sát bên đầu" vừa tả thực, vừa mang tính tượng trưng. Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng "kề vai sát cánh" mà còn gợi ra trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp, mục đích chung không của riêng ai, mà là khát vọng tự do của cả một dân tộc. Từ việc dùng chung lí tưởng, qua gian khổ, thiếu thốn, tình cảm đã nảy sinh giữa "đôi người xa lạ ấy. "Đêm rét chung chăn" - Chao ôi! Hình ảnh chân thực mà cảm động lạ kỳ... Đâu cần phô trương, đâu cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con người cũng có thể thành "tri kỉ. Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi thân thương: "Đồng chí!". Dường như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm tha thiết, thân thương giữa những người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút thật đặc biệt, một điểm nhấn, một nét chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động lòng người. Đồng chí - từ việc cùng chung chí hướng - trong gian nan đã tạo nên niềm cảm kích, xúc động chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên - phải chăng đó là cung bậc tình cảm cao quý nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái tim những con người thổn thức nhớ về quê hương.

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về "ruộng nương anh", về "gian nhà không", "giếng nước", "gốc đa". Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ đành dứt áo ra đi, "mặc kệ" tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Lạ lùng thay, cũng chính nơi đây, họ tìm được niềm đồng cảm, sẻ chia và nó cũng chính là động lực giúp họ vượt qua biết bao khó khăn.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi bên họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân tương. Và tất cả thiếu thốn trở thành vô nghĩa.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày

Bằng những chi tiết rất thực, tác giả đã tạo nên hình ảnh hai người lính, tuy vất vả, thiếu thốn về vật chất áo "rách vai", quần có "vài mảnh vá", "chân không giày", nhưng vẫn cười trong cái giá lạnh của nơi rừng thiêng nước độc. Và họ đã sưởi ấm cho nhau, bộc lộ tình cảm với nhau bằng cử chỉ giản dị mà đầy xúc động.

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí bộc lộ tình cảm với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Chính hơi ấm của đôi bàn tay ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng tất cả.

Tình đồng chí, đồng đội của những người lính không chỉ thể hiện trong những khó khăn, thiếu thốn nơi chiến trường mà còn thể hiện trong cuộc sống chiến đấu gian khổ:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Ba câu thơ cuối của bài thơ vừa thể hiện tình đồng chí của người lính trong chiến đấu vừa gợi lên hình ảnh người lính rất đẹp, rất lãng mạn. Trong đêm sương muối rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang. Trong thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng "chờ giặc tới". Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy, những người lính lại sát cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu, không quản ngại khó khăn gian khổ. Hình ảnh những người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" vừa là hình ảnh tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm đứng gác về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai nên ta có cảm giác như trăng treo nơi đầu súng. Những cây súng cũng là biểu tượng cho lực lượng chiến đấu bảo vệ hòa bình, trăng là biểu tượng của hòa bình. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" là hình ảnh thơ đẹp và lãng mạn, thể hiện hình ảnh của người lính cách mạng, và qua đó cũng chính là thể hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong chiến đấu gian khổ.

Bằng ngôn ngữ thơ rất giản dị, chân thực, Chính Hữu đã thể hiện chân thực và sinh động tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng qua những tình huống rất bình dị. Tình đồng chí của những người lính được thể hiện trong bài thơ rất sâu sắc, thiêng liêng, là tình cảm đẹp của những người lính cách mạng, tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng.

Các bài học liên quan
Một trong những đặc điểm nghệ thuật của văn học cổ nước ta là nghiêng về tả theo cách thức có sản gọi là ước lệ hơn là tả thực những chi tiết có thực trong đời sống.
Truyện Lục Vân Tiên phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội phong kiến suy tàn. Có thể nói là Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “cả một đạo quân bừng bừng khí thế kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng”...
Trong Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu viết: Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. Em hãy bình luận câu thơ trên.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm Đâm mấy thằng gian hút chẳng tà.  Trình bày ý kiến của em về quan điểm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Quan điểm này thể hiện trong sáng tác của ông như thế nào?
Phân tích những biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau: Tiếng chim vách núi nhỏ dần... Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. (Trần Đăng Khoa - Đêm Côn Sơn)

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật