Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu là một bài thơ trữ tình hay. Hãy cho biết ý kiến của em về bài thơ này

Nhà thơ - Người chiến sĩ Chính Hữu bằng cảm xúc của người trong cuộc đã thành công xuất sắc với bài thơ Đồng chí. Tác phẩm đã diễn tả thật cảm động mối tình đồng chí thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền văn học Việt Nam.

BÀI LÀM 1

Anh vẫn hành quân
Trên đường ra chiến dịch.
                   (Trần Hữu Thung)

Đã từ lâu, hình tượng người chiến sĩ quân đội đã đi vào lòng dân và văn chương với những tư thế, tình cảm, phẩm chất đẹp đẽ. Danh từ “bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cái tên thân thương nhất của nhân dân dành cho người chiến sĩ. Viết về đề tài quân đội có khá nhiều tác giả, nhưng để thành công thì không để mấy ai. Riêng nhà thơ - Người chiến sĩ Chính Hữu bằng cảm xúc của người trong cuộc đã thành công xuất sắc với bài thơ Đồng chí. Tác phẩm đã diễn tả thật cảm động mối tình đồng chí thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền văn học Việt Nam.

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau...

Xuyên suốt bài thơ, người đọc cảm nhận được một giọng thơ mộc mạc, chân thành tựa như lời tự sợ thủ thỉ về cuộc sống, về những chiến sĩ từ áo vải quần nâu đã một lòng đứng dậy chiến đấu giành tự do cho quê hương. Họ là những người dân bình thường, chân chất, cùng chung một cái nghèo, vì lý tưởng đã không quản gian lao ra đi và gặp nhau. Trong tâm tư của họ có những cái chung và cái riêng. Cái riêng của họ là những người xa lạ, khác quê hương, khác tính tình. Song lại có cùng một cái chung; đó là nỗi nhớ quê hương, nhớ mẹ già, vợ trẻ con thơ, nỗi day dứt về những việc còn dang dở, về gian nhà trống trải không người sửa mái để tránh những cơn gió mùa, về ruộng vườn, làng xóm thân thương. Từ những cái chung, từ những năm tháng khó khăn vất và họ đã xích lại gần nhau và trở thành đồng chí. Đồng chí, dù Chính Hữu chưa một lần giải thích nhưng người đọc, qua những vần thơ mộc mạc, giọng thơ gần gũi đã hiểu thông suốt, rõ ràng giá trị đích thực của nó.

Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ trong bài là ngôn ngữ đời sống dân dã, mộc mạc thôn quê.

Anh với tôi đôi người xa lạ”, tác giả không sử dụng từ “hai” mà lại nói: “đôi”. Thông thường từ “đôi” thường gắn với những danh từ như “đùa”, “chim”. Đó là “đôi” tức là bao giờ cũng phải gắn bó chặt chẽ với nhau, keo sơn, thắm thiết. Chính Hữu dùng từ này như để khẳng định tình thân giữa hai người, đồng thời làm lời thơ thêm giản dị gần với đời thường. Tuy nhiên đời thường nhưng không phải là tầm thường, thô thiển bởi tác giả khéo léo chọn đưa ngôn ngữ cuộc sống thành ngôn ngữ văn chương.

Trong bài thơ, hai lần tác giả dùng cụm từ “anh với tôi”. “Anh với tôi” là để soi vào nhau, nhận diện nhau và dễ nhận ra chính mình. Cũng có những lúc, “anh” và “tôi” được tách riêng ra. Trong những lúc ấy, “anh” và “tôi.” cũng vẫn giống nhau, vẫn dễ hoà làm một:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá...

Quả đúng vậy, trong “anh” còn có cả “tôi” nữa. Anh với tôi đều giống nhau, đều là những người chiến sĩ dầm mưa dãi nắng, gai cào bùn dây, khuôn mặt cùng ám khói súng, sạm màu trận mạc, nào có gì khác nhau! Cái nét nghệ thuật tài tình của Chính Hữu có lẽ là ở đây.

Kết cấu cũng là một nghệ thuật tinh tế của Đồng chí. Bài thơ không tuân theo những quy luật về âm vận mà tự do, phóng khoáng để bộc lộ hết cảm xúc của tác giả:

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Đột nhiên giữa bài thơ, từ “đồng chí” đứng độc lập tạo thành một câu thơ có tác dụng như một lời nói thiết tha, chân thành, khẳng định cái giá trị chân thực của đồng chí. Tứ thơ đột nhiên chuyển mạch nhưng không rời rạc, ngắn gọn nhưng không khô khan mà trái lại nó thấm đượm ân tình, thiết tha nồng hậu như nhắc, bảo, như khẳng định rằng: “Tình đồng chí chỉ có được qua khó khăn gian khổ”. Ví như những con người chiến sĩ này, như “anh” và “tôi”, những người lính đã nếm mùi đói rét, khó khăn, đương đầu với khói lửa trận mạc, chấp nhận hy sinh, biết từng “cơn ớn lạnh, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” của những trận sốt rét khốc liệt đánh gục được cả những người khỏe mạnh nhất.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh “Anh với tôi đôi người xa lạ” nhưng kết thúc lại là: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật là một hình ảnh giàu cảm xúc. Giữa hai người lính trận mạc chẳng có gì cả, chỉ có hai bàn tay trắng nắm lấy nhau như động viên an ủi, tiếp thêm sức mạnh, ý chí cho nhau. Đó cũng là một biểu tượng đẹp đẽ của tình đồng chí đích thực, của sức mạnh đoàn kết. Hai bàn tay ấy tách riêng ra thì lẻ loi, yếu ớt nhưng nắm lại thì không có sức mạnh nào địch nổi. Hơi ấm từ hai bàn tay như lan tỏa, như truyền ấm cả bài thơ. Nếu dừng bài thơ ở đây cũng là được nhưng không, Chính Hữu không dừng lại ở đó mà đi xa hơn một khổ thơ ngắn mà chứa chan tình cảm:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo...

Chỉ có ba câu thơ ngắn nhưng có thể tóm lại toàn bài, khẳng định rõ ràng nhất giá trị của bài thơ. Giữa rừng đêm lạnh giá, có hai ngọn súng, hai con người dựa sát vào nhau chờ giặc. Ánh trăng lên tỏa sáng rừng núi và chếch dần, chếch dần như treo lơ lửng trên ngọn súng người lính. Hình ảnh mang tính lãng mạn và hiện thực. Nó rất giàu chất thơ và thể hiện rõ ràng cuộc sống, tính cách, tâm hồn của những người lính, đọc câu thơ ấy, ta chợt liên tưởng đến câu thơ: .

Anh vẫn hành quân...
Nẻo đường xa anh bước
Trăng non ló đỉnh rừng

Hai hình ảnh đều cảm động và chứa chan tình người lính, chứa chan chất thơ.

Đồng chí là một bài thơ hay vì bằng một ngôn ngữ nghệ thuật hàm súc, chắc lọc, với những chi tiết thơ đầy chất gợi cảm, tác giả đã khắc họa được gương mặt những chiến sĩ vệ quốc một thời, và quan trọng hơn đó là gương mặt tinh thần, tình cảm đồng chí mới mẻ, thiêng liêng, là sức mạnh để những, con người áo rách, chân không giày chiến thắng giặc Pháp.

BÀI LÀM 2

Chính Hữu sáng tác ít, nhưng lại có nhiều bài thơ phổ nhạc hơn bất cứ thi sĩ nào. Đó là nét lạ của thơ Chính Hữu.

Hồi nhỏ tôi đã nghe hát Đồng chí, rồi thuộc, chưa bao giờ xem lại bài thơ. Gần đây tôi mới mở bài thơ ra xem. Mắt vừa chạm vào thơ, tôi đã thấy lạ. Thì ra lâu nay mình chỉ mới thưởng thức phần nhạc của thơ mà bỏ quên phần hình của nó.

Câu thơ hai chữ:

Đồng chí

Gần như đứng giữa bài thơ, viết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong. Nửa trên là một mảng quy nạp (như thế này là đồng chí), nửa dưới là một mảng diễn dịch (đồng chí còn là như thế này nữa). Một cấu trúc chính luận cho một bài thơ trữ tình. Lạ!

Chủ đề Đồng chí hiện lên trong từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. “Tôi” với “anh” khi thì xếp dọc:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

khi thì xếp ngang:

Tôi với anh vốn người xa lạ

khi thì điệp diệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm):

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

để đến đêm rét trùm chung một cái chăn thì nhập lại thành “đồng chí”.

Cái chăn đắp lại thì tâm tư mở ra. Họ soi vào nhau. Anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giải thích sao đây hai chữ “mặc kệ”? Có gì giống với thái độ này không:

Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
                         (Tổng biệt hành - Thâm Tâm)

Không! Nó đâu có khinh bạc và phiêu du như thế. Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột của ngôi nhà mình thì không còn chữ nào để diễn tả nổi tình cảm thiết tha của họ đối với gia đình. Nhưng trước hết phải vì nghĩa lớn. Thái độ hiệp sĩ ấy gần với Hồng Nguyên, gần với Trần Mai Ninh trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp, gần với Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Trần Quang Long... trong kháng chiến chống Mỹ.

Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để nương tựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi bàn chân là một cặp đồng chí, và đêm nay giữa “rừng hoang sương muối”, “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí:

Đầu súng trăng treo.

Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể và gợi đến vô cùng. Súng và trăng, gần và xa “tôi với anh vốn người xa lạ. Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”; súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng... là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.

Sự kết hợp yếu tố hiện thực roi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ.

BÀI LÀM 3

Đồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Đồng chí.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu sự xuất hiện của một nhà thơ mới trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in ở báo Sự thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tài sản chung của mọi người.

Đồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người và người trong cách mạng và kháng chiến. “Đồng chí” trong ngôn ngữ sinh hoạt chính trị và đời thường đã thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi cái lí tưởng cách mạng đoàn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung tình cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy?

Để làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ ngữ quen thuộc, nhà thơ phải dùng phép “lạ hóa”. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt và xa lạ. Đây là lời của những người đồng chí tự thấy cái mới lạ của mình:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du, đất ít hơn sỏi đá. Những con người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hò hẹn quen nhau. Ấy thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỉ:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ.

Đó là cuộc sống và chiến đấu chung đã làm thay đổi tất cả. Hai dòng thơ có một chữ "chung": “đêm rét chung chăn", nhưng cái chung đã bao trùm tất "Súng bên súng” là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều nhưng chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau về ý nghĩ, lý tưởng. “Đêm rét chung chăn" một hình ảnh thật cảm động và đầy ắp kỷ niệm. “Những lời từng kháng chiến ở Việt” Bắc hẳn không ai quên cái rét Việt Bắc và của núi rừng nói chung. Hồi ấy thơ Tố Hữu từng viết: “Rét Thái Nguyên rét về Thế, Gió qua rừng Đèo Khế gió sang”. Cũng không ai quên được cuộc sống gắn bó mọi người: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Đắp chăn chung thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng, ruột thịt. Những cái chung ấy đã biến những con người xa lạ "thành đôi tri kỉ".

Hai chữ “Đồng chí!” đứng riêng thành một dòng thơ là đều rất có ý nghĩa. Nhà thơ hoàn toàn có thể viết thế này: “Đêm rét chung chăn, thành đôi đồng chí”. “Đồng chí” và “tri kỉ” đều cùng một vần bằng, vần trắc, hai chữ hoàn toàn có thể thay thế nhau mà không làm sai vận luật, và bài thơ có thể rút ngắn được một dòng. Nhưng nếu viết như thế thì hỏng. Đêm rét chung chăn có thể thành tri kỉ, nhưng không thể nói là thành đồng chí, bởi hàm nghĩa hai chữ “đồng chí” rộng lớn vô cùng. “Tri kỉ” là biết mình, và suy rộng ra là biết về nhau. “Đồng chí” thì không phải chỉ biết nhau, mà còn phải biết được cái chung rộng lớn gắn bó con người trên mọi mặt.

Hai chữ “Đồng chí!” đứng thành một dòng thơ đầy sức nặng suy nghĩ. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ các đoạn sau. “Đồng chí” là cái có thể ôm nhận mà không dễ nói hết.

Phần hai bài thơ nói đến tình cảm chung của những người đồng chí. Những câu thơ chia thành “anh, tôi”, nhưng giữa họ đều là chung cả. Đoạn hai của bài thơ được mở đầu bằng những dòng tâm sự nhớ nhà. Bây giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia đình. Đối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu nhớ nhà là nỗi niềm thường trực:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay.

Đối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, nhưng việc ấy đành nhờ bạn thân làm hộ. Gian nhà tổ ấm cùng đành chịu hi sinh: “...mặc kệ gió lung lay”. Câu thơ ngang tàng, đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên cái bất đắc dĩ của hoàn canh. Thử hỏi ai đó có thể “mặc kệ” dể cho gió làm xiêu đổ nhà mình? Đó là một thoáng tếu nhộn làm se lòng người. Hai dòng thơ ấy đầy ắp nỗi nhớ, mặc dù tới dòng thứ ba thì chữ “nhớ” mới xuất hiện:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng họ thương nhất vẫn là người ở nhà nhớ họ, dõi theo tin tức của họ - những người ở nơi nguy hiểm. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” thật đậm đà, kín đáo và ý nhị làm sao! “Giếng nước” là nơi dân làng gặp gỡ khi sáng sáng, chiều chiều. “Gốc đa” là nơi dân làng nghỉ ngơi những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người trai ra trận. Những “giếng nước, gốc đa” cũng là nơi hò hẹn, tình tứ lứa đôi: “Trăm năm đành lỗi hẹn hò, Cây đa bến cũ, con đò khác đưa”. Biết bao là nhớ nhung. Nhưng, người lính không nói là mình nhớ, chỉ nói ai khác nhớ. Đó cũng là cách tự mình vượt lên mình, những dòng thơ nén tình riêng vì sự nghiệp chung, bằng những lời ý nhị, không một chút ồn ào.

Bảy dòng cuối của đoạn thơ dành nói riêng về nỗi gian khổ. Cái gian khổ của bộ đội trong buổi đầu kháng chiến đã được nói đến rất nhiều. Thôi Hữu trong bài Lên Cấm Sơn đã có những câu thật cảm động về những người “đem thân xơ xác giữ sơn hà”:

Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa, những ngày hoa
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỗ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà.

Quang Dũng cũng có những câu ở trong bài Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng

Chính Hữu không nói về cái khổ, mà nói về sự hiểu nhau trong cái khổ, cái chung phổ biến giữa họ với nhau:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Trong kháng chiến, ở chiến khu, bệnh sốt rét cơn là phổ biến nhất. Hai câu thơ nêu đủ các triệu trứng của bệnh sốt rét Cơn. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu cảm thấy ớn lạnh, sau đó liền cảm thấy lạnh tới người run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không hết rét, trong khi đó thì thân nhiệt lại lên cao tới 40, 41 độ, người vã cả mồ hôi, và vì nóng và vì yếu. Phải trải qua bệnh này mới hiểu hết cái thật của câu thơ. Sau cơn sốt đó là da xanh, da vàng, viêm gan, viêm lá lách...

Ngoài khổ về bệnh là khổ về trang bị. Những ngày đầu kháng chiến, chưa có đủ áo quần đồng phục phát cho bộ đội. Người lính mang theo áo quần ở nhà đi chiến đấu, khi rách thì vá víu, có người còn không có kim chỉ để vá, lấy dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta gọi đùa là “vệ túm”, ở đây anh rách, anh thông cảm nhau:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

“Miệng cười buốt giá” hẳn là cười trong buốt giá, vì ống quần không chống được rét, mà cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá, mặc dù trời lạnh hẳn nụ cười cũng khó mà tươi. Cũng có thể là nụ cười nhợt nhạt xanh xao. Nhưng xanh xao mà vẫn cười, coi thường gian khổ. Nhà thơ không viết “nụ cười buốt giá” mà viết “Miệng cười buốt giá” hẳn là vì từ “nụ cười” quá trừu tượng, vả lại, nụ cười ở đây không buốt giá, mà nhà thơ thì muốn nói một cách cụ thể đến cái miệng với đôi môi nhợt nhạt ấy.

“Chân không giày” cũng là một thực tế phổ biến, và cái nổi lên là tình thương yêu đồng đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, một hình ảnh hết sức ấm áp. Chỉ có năm dòng thơ, tác giả đã vẽ lên chân dung anh bộ độ Cụ Hồ buổi đầu kháng chiến, nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tình đồng chí sưởi ấm lòng họ.

Nếu đoạn một nói về sự hình thành tình cảm đồng chí, đoạn hai nói về tình cảm hiện đại, thì đoạn ba nói về hành động chiến đấu của họ:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Từ nhận thức chung, tình cảm chung, bài thơ kết vào hành động. Thời gian không gian trở nên cụ thể, công việc cùng cụ thể nhưng không vì thế mà sự việc thay thế chất thơ. Câu kết bài thơ là một hình ảnh nổi tiếng cô đọng, giàu ý vị:

Đầu súng trăng treo

Một hình ảnh bất ngờ, “Súng” và “trăng” là hai vật cách xa nhau trong không gian, lại chẳng có gì chung để liên tưởng. Hình ảnh này chỉ có thể là phát hiện của người lính, súng lăm lăm trong tay chờ giặc, và bất ngờ thấy mặt trăng lửng lơ treo trên đầu súng. Người không cầm súng không thể cảm thấy được. Rừng hoang sương muối là rất buốt, những người lính rách rưới đứng cạnh bên nhau và trăng cũng đứng chung với người. Trăng là biểu trưng của trong sáng và mộng mơ. “Đầu súng” chiến đấu của người đồng chí có thêm mặt trăng đã mở ra biết bao liên tưởng phong phú. Đồng thời câu thơ bốn tiếng cũng như nén lại, dồn vào bên trong, tạo thành cái kết không lời. Đoạn một và hai toàn những lời tâm sự. Đoạn cuối lại là bức tranh cổ điển, hàm súc dư ra.

Đồng chí là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách cô đọng, kiệm lời của nhà thơ Chính Hữu.

Các bài học liên quan
Truyện Lục Vân Tiên phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội phong kiến suy tàn. Có thể nói là Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “cả một đạo quân bừng bừng khí thế kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng”...
Trong Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu viết: Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. Em hãy bình luận câu thơ trên.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm Đâm mấy thằng gian hút chẳng tà.  Trình bày ý kiến của em về quan điểm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Quan điểm này thể hiện trong sáng tác của ông như thế nào?
Phân tích những biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau: Tiếng chim vách núi nhỏ dần... Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. (Trần Đăng Khoa - Đêm Côn Sơn)
Đóng vai Thúy Kiều kể lại cho mọi người nghe việc báo ân báo oán. Trong lời kể giúp mọi người hình dung được cảnh vật và tâm trạng của Thúy Kiều khi gặp lại Hoạn Thư.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật