Đề bài: Phân tích bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu

Bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ thơ sáng tác năm 1938. Tác phẩm đã phác họa thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa tràn đầy sức sống, đồng thời bộc lộ cảm nhận sâu sắc của Xuân Diệu về sự hữu hạn, ngắn ngủi của tuổi trẻ và cuộc đời con người.

BÀI LÀM 1

“Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Đó là nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân về tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ mới - Xuân Diệu. Thơ ông luôn thể hiện chân thực nồng nàn và hiện đại những trạng thái, cảm xúc trong tâm hồn con người. Vội vàng là một bài thơ tiêu biểu.

Bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ thơ sáng tác năm 1938. Tác phẩm đã phác họa thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa tràn đầy sức sống, đồng thời bộc lộ cảm nhận sâu sắc của Xuân Diệu về sự hữu hạn, ngắn ngủi của tuổi trẻ và cuộc đời con người. Từ đó, nhà thơ gửi gắm vào lời thơ của mình quan niệm sống vội vàng, đón trước, bắt kịp thời gian và tận hưởng có ý nghĩa cuộc sống tràn đầy hương sắc. Tất cả những nội dung ấy được Xuân Diệu gói ghém trong 39 dòng thơ với hình ảnh thơ sáng tạo, mang dấu ấn của thơ ca phương Tây. Vội vàng tiêu biểu cho phong cách Xuân Diệu và xứng đáng là thi phẩm xuất sắc của thơ ca giai đoạn 1930 - 1945.

Đoạn thơ đầu tiên đã phác họa rõ nét bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp lãng mạn, tràn đầy sức sống. Qua đó, nhà thơ bộc lộ quan niệm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh mới mẻ về con người:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa.

Đọc đoạn thơ, người đọc bắt gặp điệp ngữ “này đây”. Điệp ngữ được lặp lại năm lần trong sáu dòng thơ tạo ngữ điệu liệt kê. Bản thân “này đây” đã được tạo nên bởi những từ ngữ xác định, cụ thể cho nên các hình ảnh thiên nhiên càng hiện lên rõ nét. Đặc biệt, được đặt chủ yếu ở đầu câu thơ, điệp ngữ mang đến cho người đọc cảm nhận những cảnh đẹp tuyệt vời của thiên nhiên giống như những món ăn tinh thần được sắp sẵn, cứ lần lượt xuất hiện. Qua đó, độc giả thấy được cảm hứng ngợi ca cuộc sống trần thế của Xuân Diệu. Những cảnh sắc ấy được miêu tả trong “tuần tháng mật”. Từ cách nói của người phương Tây dùng để chỉ thời gian hạnh phúc của lứa đôi, nhà thơ đã sáng tạo thành một ẩn dụ mới mẻ chỉ sự ngọt ngào, tràn đầy tình yêu, hạnh phúc của cuộc sống. Cuộc sống ấy được tạo nên bởi thiên đường trên mặt đất đẹp, đầy sức hấp dẫn. Hình ảnh “hoa của đồng nội” gợi vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết mà rất đỗi giản dị, mộc mạc. Bằng con mắt trẻ trung, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp của cuộc sống - không phải ở những gì sang trọng, quý giá mà là vẻ đẹp bình dị, chân phương. Hoa được đặt trong không gian xanh rì, mênh mông vô tận. Màu xanh ấy tượng trưng cho sức sống, sự sống. Với sự lựa chọn nền xanh đầy tinh tế. Vẻ đẹp của hoa trở nên nổi bật. Từ đó, sức sống căng tràn của thiên nhiên hiện lên rõ nét. Bên cạnh đó, hình ảnh “cành tơ phơ phất” giúp cho bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp lãng mạn, duyên dáng. Cảnh sắc thiên nhiên không chỉ được miêu tả bằng những hình ảnh mà còn bằng âm thanh, ánh sáng. Nếu ta đã bắt gặp ở đâu đó “khúc nhạc thơm” (“Này lắng nghe em khúc nhạc thêm. Say người như rượu tối tân hôn”) thì trong Vội vàng âm thanh lại hoàn toàn khác. “Khúc tình si” là âm thanh của tiếng chim hót. Nó chất chứa niềm vui, niềm hạnh phúc. Cho nên sự xuất hiện của “khúc tình si” mang đến cho bức tranh sự sống động, có hồn và hữu tình. Buổi sáng mùa xuân thì không thể thiếu ánh sáng. Đó là ánh ban mai mở ra không gian trong trẻo, êm đềm, thi vị. Ánh sáng ấy được đặt trong liên tưởng rất lãng mạn như được tỏa ra từ đôi mắt của người thiếu nữ. Liên tưởng này xuất hiện nhiều trong thơ của Xuân Diệu làm cho cảnh sắc thiên nhiên mang vẻ đẹp tình tứ, kì ảo như cõi tiên, vẻ đẹp này phù hợp với cảm hứng ngợi ca cuộc sống trần thế của tác giả ở những câu thơ trên. Miêu tả bức tranh thiên nhiên như một thiên đường trên mặt đất, qua đó Xuân Diệu bộc lộ quan niệm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh mới mẻ của mình:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

“Tháng giêng” là tháng mở đầu của mùa xuân. Và mùa xuân trong cảm nhận của Xuân Diệu là mùa đẹp nhất. Bởi đó không chỉ là mùa của sự sinh sôi, nảy nở mà còn là mùa của tình yêu, mùa của hạnh phúc. Chính vì vậy, lựa chọn thời gian nghệ thuật để miêu tả bức tranh thiên nhiên là sự lựa chọn rất đắt. Đặc biệt trong câu thơ, từ “ngon” được sử dụng độc đáo, sáng tạo. Cách dùng từ táo bạo càng tăng sức hấp dẫn kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống. Thời gian vốn là khái niệm vô hình nhưng lại được so sánh với hình ảnh cụ thể “cặp môi gần”. Qua đó, Xuân Diệu đã hình tượng hóa vẻ đẹp của mùa xuân. Thiên nhiên được so sánh với con người đã hé mở quan niệm nhân sinh mới mẻ của nhà thơ. Nếu thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
                                    (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

thì với Xuân Diệu, quan niệm ấy bị phá vỡ. Với ông, con người là chuẩn mực của cái đẹp “Lá liễu dài như một nét mi”. Chính vì vậy, đây là câu thơ mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu.

Bài thơ Vội vàng không chỉ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp lãng mạn, tràn đầy sức sống của thiên nhiên mà còn bởi cảm nhận sâu sắc, thấm thía của tác giả về sự hữu hạn của tuổi trẻ, của con người. Trước hết, đó là sự trôi chảy không ngừng của thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Điệp từ “xuân” lặp lại nhiều lần xác định đối tượng, sự quan tâm chủ yếu là mùa xuân. Với Xuân Diệu, mùa xuân không chỉ mang ý nghĩa khởi đầu của một năm mà còn là biểu tượng cho sự sống, tình yêu. Cho nên, sự trở đi trở lại của từ “xuân” như một nốt nhấn trong bản nhạc, tạo sự chú ý của người đọc. Mùa xuân được đặt trong sự vận động “tới - qua - non - già”. Mùa xuân nói riêng và thời gian nói chung là khái niệm trừu tượng, nhưng trong cảm nhận của Xuân Diệu, nó cụ thể, hữu hình. Hơn thế nữa, bản thân mùa xuân cũng chất chứa sự trôi chảy. Khi sự sống căng tràn, ở độ viên mãn nhất cũng là lúc nó đến độ tàn phai. Bước đi của thời gian đã được cảm nhận bằng sự lo âu, Thống nhất trong cách cảm nhận đó cho nên trong bài Đây mùa thu tới, mùa thu hiện ra như một cô gái lộng lẫy trong chiếc áo được dệt từ muôn ngàn chiếc lá vàng rơi nhưng cũng thấp thoáng sự tàn phai, héo úa qua hình tượng “áo mơ phai dệt lá vàng”. Sự ngắn ngủi, hữu hạn của mùa xuân càng được khẳng định quá câu trúc định nghĩa “nghĩa là”. Tưởng như cấu trúc này đang giải thích về mùa xuân nhưng thực chất là nói về sự đối lập, mâu thuẫn trong sự vật. Lặp lại ba lần, cấu trúc “nghĩa là” tạo âm điệu buồn sâu lắng. Dường như, nhà thơ muốn kiếm tìm sự đồng điệu nơi độc giả. Được mệnh danh là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, Xuân Diệu không chỉ khám phá vẻ đẹp của mùa xuân mà còn thấm thía nỗi buồn, sự mất mát khi mùa xuân ngắn ngủi. Trước Xuân Diệu, Thế Lữ có bài Hoài xuân:

Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồ sen dào dạt
Mùa xuân còn, hết ? Khách đa tình ơi.

Dù lời Thơ mới mẻ, sống động nhưng cảm hứng chưa khác biệt với thơ ca trung đại. Chỉ Xuân Diệu mới thấy được bước đi của mùa xuân, xuân đến - xuân qua - xuân hết. Thực chất đó là sự cảm nhận thời gian mới mẻ, sâu sắc, chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.

Cảm nhận sự trôi chảy vô hạn của thời gian đồng nghĩa với thực tại về sự ngắn ngủi, hữu hạn của tuổi xuân, cuộc đời:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Tác giả phát hiện ra hàng loạt nghịch lí. Đó là sự tương phản đối lập giữa vô hạn và hữu hạn, khoảnh khắc và vô tận. Từ cảm nhận về thời gian khách quan, tác giả cảm nhận về thời gian đời người. Như vậy, quan niệm thời gian gắn liền cuộc sống là quan điểm nhân sinh của Xuân Diệu.

Dù nuối tiếc, xót xa nhưng đã là quy luật thì không ai có thể thay đổi. Từ ngữ mang đậm chất khẩu ngữ “nói làm chi rằng” khiến câu thơ có giọng trữ tình sâu lắng giống như lời bộc bạch của nhà thơ. Thơ ca trung đại cũng thể hiện ý thức sự ngắn ngủi của con người nhưng do quan niệm vũ trụ và thời gian luôn tuần hoàn nên con người ung dung tự tại. Còn Xuân Diệu thấm thía tuổi xuân của con người “một đi không trở lại” và nó ngắn ngủi cho nên thơ ông trĩu nặng nỗi buồn và sự tiếc nuối. Tiếc mùa xuân, tiếc tuổi trẻ cũng là tiếc cuộc đời. Không chỉ như vậy, con người thường tiếc những gì đã qua, đã mất Còn Xuân Diệu lại tiếc tuổi trẻ, mùa xuân ngay khi nó đang hiện hữu. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời, ham sống. Tác giả đã bộc lộ trực tiếp cảm xúc, tâm trạng:

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Câu thơ tiếp tục là một nghịch lí về sự hữu hạn của đời người. Từ đó, câu thơ giống như một chiếc bản lề, như một nhịp cầu nối giữa cảm nhận về thời gian và tâm trạng của con người trước hiện thực phũ phàng;

Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Hiện thực đó là bức tranh mang ý nghĩa ngụ tình sâu sắc. Nếu ở đoạn thơ đầu tiên, người đọc thấy rõ cảm hứng ngợi ca cuộc sống trần thế của Xuân Diệu thì ở đoạn thư này. Mỗi hình ảnh đều chất chứa nỗi buồn, sự tiếc nuối. Không gian “trời đất”, “sông núi” trải dài vô cùng vô tận được đặt trong mối quan hệ với thời gian “tháng năm”. Dòng thời gian ấy gợi sự tiếp nối vô tận và sự trôi chảy của cuộc đời. Để bộc lộ tâm trạng của mình, Xuân Diệu đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nhân hóa. Sông núi than thân,, com gió biết hỏi, chim trở nên sợ hãi. Tất cả đều trĩu nặng nỗi buồn da diết, khôn nguôi. Bức tranh thiên nhiên mang tâm trạng con người. Tâm trạng đó xuất phát từ cảm nhận sâu sắc về thời gian. Đặc biệt, hệ thống từ ngữ giàu giá trị biểu cảm càng tô đậm tâm trạng của nhân vật trữ tình: bâng khuâng - tiếc - tiễn biệt - chia phôi. Xuân Diệu là “nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” bởi ông có cách cảm nhận rất riêng về thời gian, chưa từng thấy trong thơ ca trung đại và tài năng sử dụng bút pháp tương giao điêu luyện:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Là người chịu ảnh hưởng đậm nét của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã vận dụng đầy đủ mọi giác quan để mô tả thế giới với tâm hồn say sưa nhất. Chỉ một câu thơ thôi mà “cảm giác liên tục được chuyển hóa vào nhau, hài hòa, tự nhiên”. Đó là cách cảm nhận thời gian bằng khứu giác nhạy bén “mùi tháng năm”. Nhà thơ bỗng nhìn thấy tất cả đang bắt đầu vào độ tàn phai - “rớm” -qua thị giác. Và liền sau đó cho thấy thị giác đã chuyển sang vị giác. “Vị chia phôi” ai có thể đếm được. Nhưng với Xuân Diệu thì nó lại càng cụ thể, hữu hình. Mỗi phút giây trôi đi, con người phải chia tay tiễn biệt với một phần của cuộc đời mình. Nỗi tiếc nuối đau đớn đó thấm vào vũ trụ khiến cho những sự vật tưởng như vô tri, vô giác cũng trĩu nặng nỗi buồn. Đặc biệt, hai câu cuối, điệp ngữ “chẳng bao giờ” lặp lại hai lần khẳng định mạnh mẽ sự ngắn ngủi của thời gian đời người và nỗi buồn thấm thía. Đó là cơ sở cho quan điểm sống vội vàng mà tác giả sẽ đề cập ở đoạn thơ tiếp theo để vượt qua sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người và tuổi xuân.

Nội dung chủ đạo mà thi phẩm Vội vàng muốn gửi tới người đọc là quan điểm sống hết mình, sống có ý nghĩa để đón trước và bắt nhịp thời gian. Quan điểm ấy được thể hiện rõ trong đoạn thơ cuối:

Ta muốn ôm!
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!

Điệp từ “ta muốn” lặp lại nhiều lần trong một đoạn thơ ngắn diễn tả trực tiếp khát vọng mãnh liệt được giao cảm với đời. Điệp từ “này” đứng đầu câu thư tô đậm cảm hứng chủ đạo bao trùm đoạn thơ là khát vọng của nhân vật trữ tình. Đặc biệt, ở điệp ngữ này có sự thay đổi đại từ nhân xưng. Ở đoạn thơ đầu, tác giả bộc lộ trực tiếp với đại. Từ “tôi” với ý nghĩa cá nhân, cá thể thì ở đây, tác giả sử dụng đại từ “ta” vừa chỉ cá thể vừa chỉ đối tượng. Qua đó khát khao giao cảm với đời được diễn tả mạnh mẽ hơn. Và dường như, nhà thơ muốn chia sẻ quan điểm của mình với mọi người: Kêu gọi con người hãy sống vội vàng để đón trước và bắt kịp thời gian. Bên cạnh đó, hệ thống từ ngữ táo bạo, mãnh liệt: “ôm” - “riết” - “say” - “thâu” diễn tả hành động cụ thể của con người, muốn hòa mình vào cuộc sống, khám phá tận hưởng vẻ đẹp “mơn mởn” của cuộc đời một cách đã đầy, “no nê”. Những tính từ cực tả vẻ đẹp của cuộc sống trần thế càng làm cho khát vọng của nhà thơ trở nên mãnh liệt. Đồng thời, đoạn thơ này có cấu trúc rất hiện đại, mới mẻ. Câu thơ mở đầu “ta muốn ôm” chỉ có ba từ, sự rút ngắn đột ngột thể hiện một bước chuyển về cảm xúc. Ở những câu thơ tiếp theo, người đọc bắt gặp kiểu cấu trúc vắt dòng:

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

Cấu trúc vắt dòng kết hợp với điệp từ “và” trở đi trở lại ba lần trong câu thơ tạo ngữ điệu liệt kê, mở ra không gian khoáng đạt, bao la. Đằng sau câu thơ là hình ảnh con người đang mở rộng vòng tay muốn ôm tất cả vẻ đẹp của cuộc sống. Tám câu thơ đã làm nổi bật khát khao giao cảm với cuộc đời. Nếu như bốn câu thơ mở đầu, Xuân Diệu muốn “tắt nắng”, “buộc gió” - một khát vọng mãnh liệt nhưng có phần xa xôi thì đến đoạn thơ này, tác giả đã thay thế đôi giày cổ tích bằng tốc độ sống vội vàng, hối hả để vượt qua sự hữu hạn của tuổi xuân, đời người. Dường như có cuộc chạy đua giữa con người và thời gian. Và đỉnh cao của cảm giác, đỉnh cao của quan điểm sống vội vàng:

Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi

Hình ảnh “xuân hồng” ở cuối bài thơ gợi nhắc ta nhớ tới bức tranh thiên nhiên đẹp, tràn đầy sức sống ở đoạn thơ đầu. Đồng thời đây cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân và cuộc đời ở độ đẹp nhất, viên mãn nhất. Lặp lại nhiều lần ở câu thơ trước và nay, lại xuất hiện lần cuối, điệp từ “ta muốn” tô đậm cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là khát vọng được giao cảm với đời. Đây cũng là cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của Xuân Diệu. Đỉnh điểm cao nhất của mọi hoạt động là động từ "cắn'. Động từ mở ra cảm xúc dâng trào trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Đặc biệt, cấu trúc câu cảm thán vừa biểu lộ cảm xúc dâng trào tột đỉnh, vừa giống như lời đối thoại thể hiện tuyên ngôn sống vội vàng của Xuân Diệu. Ông đã từng tuyên ngôn:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.

Còn ở đoạn thơ này, nhà thơ muốn thể hiện quan điểm sống vội vàng bằng tốc độ sống gấp gáp. khẩn trương, sống có ý nghĩa để tận hưởng trọn vẹn hương sắc của cuộc sống. Những tuyên ngôn đó đều là tiếng nói của một hồn thơ tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống và khát khao giao cảm mãnh liệt với đời.

Bài thơ Vội vàng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Cảm nhận dòng thời gian vật lí và thời gian đời người, qua đó bộc lộ quan điểm sống vội vàng nhưng lời thơ của Xuân Diệu không hề khô khan, lí thuyết, giáo điều mà được thể hiện qua hệ thống hình ảnh thơ sáng tạo, ngôn ngữ thơ phong phú có khả năng diễn tả mọi cung bậc cảm xúc của con người. Bên cạnh đó, sự sáng tạo của Xuân Diệu còn được thể hiện qua cấu trúc câu mới mẻ, khiến bài thơ Vội vàng mang vẻ đẹp rất hiện đại, độc đáo. Đó là sản phẩm của một tâm hồn “ham sống, yêu sống đến cuồng nhiệt” và một cái “tôi tha thiết, rạo rực, băn khoăn”.

BÀI LÀM 2

Nói tới Xuân Diệu thời kì trước Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhớ ngay đến nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu. Lòng say đắm cùng tuổi trẻ cuồng nhiệt với tình yêu nên Xuân Diệu luôn lo âu hốt hoảng trước sự trôi chảy thấm thoát của thời gian. Bài thơ Vội vàng rất tiêu biểu cho đặc điểm nổi bật ấy của hồn thơ Xuân Diệu. Ngay cái tên trong bài thơ đã thể hiện một thái độ trước thời gian. Vội vàng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ, một triết lí nhân sinh mới mẻ bằng hệ thống hình ảnh, ngôn từ táo bạo, gợi cảm và điệu thơ cuốn hút.

Mỗi thi sĩ lãng mạn thường tìm chốn thiên đường riêng của mình. Người thì thoát lên tiên, người lại mơ tình trong cõi mộng, người lại quay về khóc than cho quá khứ vàng son. Thậm chí có người muốn hủy hoại bản thân mình bằng cuồng loạn và bất tận... Trong khi ấy, Xuân Diệu chủ trương đứng vững trên chốn trần gian này, tìm hạnh phúc ở mỗi phút giây hiện tại mình đang được sống. Đối với Xuân Diệu, thiên đường chẳng ở đâu xa mà hiện ngay trước mắt, ngay trong mùa xuân và tuổi trẻ của đời người. Bài thơ mở đầu bằng một ước muốn:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Con người ta ai mà tắt nắng được, mà buộc gió được! Cái ước muốn của Xuân Diệu thật lạ lùng nhưng nó lại xuất phát từ một tấm lòng vô cùng thành thực. Năng sẽ làm màu nhạt phai. Gió sẽ cuốn hương bay mất. Vậy là thi sĩ muốn thế giới này mãi ở mùa xuân, thiên nhiên này mãi mãi ngưng đọng ở độ thăm tươi, ngọt ngào nhất. Chính từ đây, Xuân Diệu say sưa vẽ ra một thiên đường trên mặt đất.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.

Bốn câu thơ gắn bốn điệp từ “này đây” diễn tả các động tác trữ tình. Ta tưởng tượng Xuân Diệu đang lần lượt bày ra dâng lên nỗi thiết tha mời mọc mọi người từng món ăn ngon lành của mâm cỗ mùa xuân. Sau điệp từ “này đây” là những hình ảnh thật gợi cảm mang vẻ đẹp đặc trưng của mùa xuân. Đây là mùa của ong bướm lượn, của hoa thắm, của cành lá non tơ, của cặp chim yến anh với khúc tình ca ríu rít. Đây quả là một khu vườn xuân rạo rực tình ái qua tâm hồn trẻ trung của thi sĩ Xuân Diệu. Nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp lạ kì của thiên đường trên mặt đất, Xuân Diệu đã sử dụng các tính từ, định ngữ giàu tính biểu cảm “mật, xanh rì, phơ phất, tình si”... Các tính từ này nói cùng ta mùa xuân đang ở độ trẻ trung, nồng thắm nhất. Đâu phải đến thời Xuân Diệu viết Vội vàng mới có mùa xuân non tơ nồng thắm như thế mà nó tồn tại từ rất lâu trên thế gian. Nhưng trong thơ ca, đây lại là lần đầu tiên hiện lên hình ảnh mùa xuân ấy. Văn học thời trung đại có tính phi ngã mà miêu tả, biểu hiện qua một hệ thống ước lệ. Lúc ấy nhà thơ chưa thể nhìn ngắm thế giới, miêu tả nó bằng đôi mắt của cá nhân mình. Chỉ đến thời ý thức cá nhân nảy nở, thế hệ thi sĩ lãng mạn thể hiện trong thơ ca mới có mùa xuân tươi đẹp như nó ở ngoài đời.

Thiên nhiên đã đẹp song con người lại còn đẹp hơn. Trong quan niệm thẩm mĩ của Xuân Diệu, con người ở độ tuổi trẻ và trong tình yêu chính là vẻ đẹp tối cao của thế gian này. Bởi thế Xuân Diệu thường về vẻ đẹp thiên nhiên với con người. Ông thường đem đến cho thiên nhiên vóc dáng và tâm trạng của con người. Ánh sáng được Xuân Diệu cảm nhận qua đôi mắt to tròn long lanh của người thiếu nữ. Khi đôi mắt ấy chớp hàng mi thì phóng ra muôn ngàn tia sáng, Niềm vui được Xuân Diệu biến thành vị thần muốn ban mai gõ cửa đến với từng nhà.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Là nhà thơ của tình ái, Xuân Diệu nhìn ngắm cuộc đời qua lăng kính đặc biệt của riêng mình. Tháng giêng vốn vô hình ai mà ăn được. Từ “ngon” đang biến tháng giêng thành vật thể hữu hình mang cảm giác hưởng thụ của thi sĩ. Độc đáo hơn nữa, nhà thơ lại ví “ngon” như “một cặp môi gần”. Tháng giêng như một cặp môi mơn mởn ngon lành của người thiếu nữ đang hiện lên trước mắt, đang rạo rực mời chào.

Đang say sưa trước một thiên đường trên mặt đất, Xuân Diệu chợt giật mình mới nhận ra mùa xuân ấy nào đâu được vĩnh viễn, thời gian thoăn thoắt trôi đi! ai mà níu giữ nổi. Dòng chảy bất tận của thời gian được Xuân Diệu diễn tả bằng những từ ngữ đối lập:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Từ đây chữ “xuân” bắt đầu được chuyển nghĩa, đó vừa là xuân của đất trời vừa là xuân của đời người. Khi tuổi trẻ chẳng còn thì cuộc sống chỉ là tồn tại, mong ước được sống mãi với tuổi trẻ thì khôn cùng nhưng tạo hóa nào chấp nhận:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Ta nhận ra tâm trạng lo âu, chán chường của Xuân Diệu khi tuổi trẻ chẳng bao giờ “thắm lại”:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Giọng điệu thơ vừa tranh luận vừa giải thích như thể hiện động tác lắc đầu xua tay gạt lời an ủi của một ai đó. Từ nhận thức tuổi trẻ chẳng bao giờ thắm lại hai lần vào cuối bài thơ, Xuân Diệu đưa ra cách ứng xử của riêng mình. Ấy là hãy mau mau tận hưởng tận hưởng hạnh phúc ngắn ngủi của mùa xuân, hãy bám lấy từng phút giây mình đang được sống. Đoạn thơ này thể hiện đầy đủ triết lí nhân sinh tích cực trong cuộc sống:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đủ đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!

Điệp từ “ta muốn” đứng đầu nhiều dòng thơ nhằm công khai tỏ bày khát vọng hưởng thụ của cá nhân. Đến đây, Xuân Diệu không thể giấu lòng mình nữa mà bộc lộ một cách trực tiếp tràn đầy. Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu viết “tôi muốn” đến đây lại dùng điệp từ “ta muốn”. Tôi hay ta thì cũng là cá nhân thi sĩ Xuân Diệu đó thôi. Đây là sự chuyển đổi từ xưng hô nhằm khẳng định công khai, mãnh liệt hơn. Mặt khác đại từ “ta” này còn bao hàm ý đại diện rồi cất lên tiếng lòng của bao người trẻ tuổi, trẻ lòng.

Đằng sau các điệp từ “ta muốn” là những động từ diễn tả động tác quyết liệt, mạnh bạo: “ôm, riết, say, thâu, căn”. Hệ thống động từ này còn nói lên khát vọng hưởng thụ đủ đầy triệt để. Là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm, ước mong tận hưởng xứng đáng cuộc đời nên Xuân Diệu thường dùng các động từ diễn tả động tác mạnh mẽ. Rất nhiều bài thơ khác của ông cũng sử dụng động từ này:

Trời cao trêu nhử chén xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em
                                  (Vô biên)

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tốt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui đi, răng mở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự.
                                      (Giục giã)

Ta bấu răng vào da thịt của đời
Ngoàm sự sống để làm êm đói khát.
                                        (Thanh niên)

Đối tượng của khát vọng hưởng thụ ở đây là hình ảnh trẻ trung tươi thẩm thật gợi tình của thiên nhiên mùa xuân. Những hình ảnh này gợi ta nhớ lại thiên đường trên mặt đất ở phần đầu, trạng thái của sự hưởng thụ say sưa ngất ngư được Xuân Diệu diễn tả qua các từ “chếnh choáng, đã đầy, no nê”.

Nhằm diễn tả khát vọng hưởng thụ vô biên cuồng nhiệt, nhịp điệu đoạn thơ này cũng thật đặc sắc, lời thơ cứ dồn dập, gấp gáp cuốn hút một mạch từ đầu đến cuối. Có thể ví đoạn thơ này như một sợi dây đàn cứ căng cao lên mãi mà đỉnh điểm chính là câu cuối cùng. Đến đây Xuân Diệu đã kêu lên thành lời cảm thán. Nhà thơ tưởng tượng mùa xuân như một trái ngon hồng hào hiện ngay trước mắt mình và vội cắn vào.

Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống, là một bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ luôn khao khát được giao cảm với đời. Bài thơ đã đem đến một nhân sinh quan tích cực, đó là phải biết sống ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, sống làm sao để tuổi trẻ không trôi qua trong hoài phí. Phải chăng vì thế mà tuy được viết ra trong niềm lo âu về sự trôi chảy của thời gian nhưng Vội vàng đã trở thành một tác phẩm có sức sống vượt thời gian.

Các bài học liên quan
Đề bài: Phân tích cái “ngông” trong “Hầu Trời” của Tản Đà.
Đề bài: Chứng minh rằng, truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc, như có nhà nghiên cứu đã nhận định, là một khi tình xuất sắc thể hiện sự kết hợp giữa chính trị và văn chương trong sự nghiệp sáng tác của Bác Hồ.
Đề bài: Phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” (trích “Rô-mê-ô và Giu-li-ét”) của sếch-xpia.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật