Đề bài: Hãy làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này

Không hiểu những vần thơ ấy đã đến với tôi từ lúc nào, chỉ nhớ lúc đó tôi vẫn chưa biết Xuân Diệu là ai. Mọi người yêu thơ bởi thơ có khả năng rung động mạnh mẽ hơn cả và ở nhà thơ Xuân Diệu đã hội tụ được điều quan trọng nhất: nói tiếng nói của tâm hồn con người.

Đề bài: Hãy làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết...”

BÀI LÀM

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất:
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Không hiểu những vần thơ ấy đã đến với tôi từ lúc nào, chỉ nhớ lúc đó tôi vẫn chưa biết Xuân Diệu là ai. Mọi người yêu thơ bởi thơ có khả năng rung động mạnh mẽ hơn cả và ở nhà thơ Xuân Diệu đã hội tụ được điều quan trọng nhất: nói tiếng nói của tâm hồn con người. Những điều mà ta vẫn thấy, vẫn biết hằng ngày được nhà thơ tô điểm bằng tình cảm chân thành mãnh liệt tạo nên những âm điệu thật huyền diệu, truyền đến người đọc những rung cảm đối với cuộc đời, đối với tình yêu con người và thiên nhiên. Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết... (Hoài Thanh).

Người yêu thơ Xuân Diệu bởi chỉ đến Xuân Diệu cái tôi mới được bộc lộ hết mình đắm say và lãng mạn. Ông vẫn muốn khẳng định cái tôi ấy trong niềm giao cảm với đời:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Trong đôi mắt thi sĩ, cuộc sống xung quanh ta diễn ra thật sôi động, vạn vật như đang tuôn trào nhựa sống, vô tận, tất cả đều đẹp lắm chứ, đáng tận hưởng lắm chứ: Tuần tháng mật đẹp tuyệt vời vợi bao niềm vui hạnh phúc, “hoa của đồng nội” trang điểm cho không gian bao la, tô điểm cho cuộc đời thêm tươi mát; Màu lá xanh non tơ kia cũng đáng để ngắm nhìn và ca khúc nhạc “tình si” nữa cũng rộn ràng lòng người, rộn ràng một tình yêu. Cuộc đời vẫn đều đặn nhịp nhàng trôi đi nhưng với những người biết sống, biết yêu, biết tận hưởng thì cuộc đời sẽ ý nghĩa và đầy ắp niềm vui. Bình minh lên bắt đầu một ngày mới. Một năm bắt đầu bằng mùa xuân. Vì thế, quãng thời gian thanh xuân của tuổi trẻ giàu khát khao được cụ thể hóa thành:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Vậy ở quãng đời thanh xuân quý báu và vô giá đó, ta sẽ phải sống sao cho khỏi tiếc nuối khi mùa xuân qua:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Cái bất biến là vũ trụ, vũ trụ chứa đựng cả cuộc đời mà “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Vì biết rằng “còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi” nên “bâng khuâng , nên “tiếc cả đất trời”. Nhà thơ nuối tiếc tất cả, lưu luyến ta nhưng không đắm chìm trong ảo tưởng mà phải thực hiện bằng hành động, vì thế mà ông phải vội vàng, cuống quýt nhưng vẫn không kịp với thời gian. Nhà thơ chạy đua với thời gian, níu kéo lại thời xuân sắc của đời người “một đi không trở lại”. Đó là cái ước muốn rất trần thế, rất con người nhưng cũng thật trong sáng, xa lạ với những ham muốn tầm thường. Xuân Diệu muốn chống lại cả vòng quay của tạo hóa, muốn “tắt nắng đi” để hoa được thắm mãi trên cành, muốn giữ cho mùi hương được nồng nàn, “muốn buộc gió lại” “cho hương đừng bay đi”, muốn bộc lệ, khẳng định cái tôi trong cuộc đời,... Những ước mơ ấy luôn gắn liền với cuộc đời, hòa trong cuộc đời.

Trong Thơ Xuân Diệu luôn bộc lộ một ham muốn thể hiện những gì thanh tao, cao quý và tinh túy nhất mà cuộc đời đã ưu đãi con người. Ông vồ vập, đắm say trong tình yêu:

Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Có lẽ chỉ Xuân Diệu mới có được cái ý muốn độc đáo, đáng yêu, sâu sắc đến vậy. Muốn ôm trong vòng tay mình cả sự sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Rõ ràng câu thơ gợi lên sự ham muốn đến tột đỉnh. Cái ham muốn ấy ngày càng tăng lên, mạnh mẽ hơn, dữ dội hơn khi nhà thơ bước chân vào đời. Ta muốn “ôm” chưa đủ, tác giả còn muốn "riết", vẫn chưa đủ tác giả còn muốn “say”, muốn “thâu trong một cái hôn nhiều”:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

Và lên đến tột cùng là hành động thật mãnh liệt:

Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!

Chỉ đến thế, ta mới hả hê với cảm giác no nê, đã đầy, chếnh choáng. Cuộc đời tuyệt mĩ biết bao, con người sung sướng và hạnh phúc biết bao!

Nhưng những ham muốn của nhà thơ không hề thấp hèn, tầm thường mà trong sáng và đáng quý. Nhà thơ luôn rạo rực, hối hả, vội vàng đến cuống quýt, lúc nào cũng thúc giục mình nhanh nữa, nhanh hơn nữa: “Mau đi thôi trời chưa ngả chiều hôm” và ý nghĩa hơn, nhân bản hơn bởi lời thúc giục ấy còn là lời giục giã đối với đời, với tất cả chúng ta rằng: Cuộc đời đáng yêu, đáng tận hưởng biết chừng nào, hãy mau nữa lên để cho thời gian có giá trị, để sau này khỏi hối tiếc khi tuổi xuân trôi qua.

Ngay lúc buồn thì sự nồng nàn, lãng mạn cũng vẫn không hề vai đi trong hồn thơ Xuân Diệu:

- Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều;
- Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới! Mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Ông luôn tin tưởng vào cuộc đời tươi sáng, lúc nào cũng trong tư thế háo hức, chào đón tương lai. Trong nỗi buồn, trong muôn ngàn dòng lệ tuôn rơi, ta vẫn nghe tiếng reo vui như trẻ nhỏ được quà: “Đây mùa thu tới! Mùa thu tới”. Mùa thu đến mang theo bao vẻ đẹp, lẽ nào lại không vui sướng. Tấm áo choàng của “Nàng Thu” có màu “mờ phai” được dệt từ những chiếc lá vàng. Thơ quá! Mơ quá! Một tâm hồn tinh tế, nhạy bén, tuyệt vời. Cái buồn của Xuân Diệu trong thời điểm trước Cách mạng là nỗi buồn chung của thời đại. Hơn nữa ông là con người giàu mộng mơ, giàu khát khao yêu đương nên càng dễ buồn ngơ ngẩn khi mùa thu tới! Sắc thái tình cảm trong thơ Xuân Diệu tinh vi không thuần nhất bởi tâm hồn ông như chứa đựng cả thế gian, nhưng thật đáng tiếc không tìm được người tâm đắc chia sẻ nên ông càng khao khát yêu đương. Mặc dù ông biết rằng: “Yêu là chết trong lòng một ít” nhưng ông lại không thể sống thiếu tình yêu:

Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào.

cũng bởi vì:

Làm sao cắt nghĩa được chữ yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.

Bên cạnh tình yêu của đôi lứa, thơ Xuân Diệu vẫn trọn vẹn tình yêu thiên nhiên mà dường như không bao giờ cạn:

Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.

Những cái đẹp của thiên nhiên phải lấy cái đẹp của con người, cụ thể là người thiếu nữ xinh đẹp, làm chuẩn mực:

- Lá liễu dài như một nét mi
- Hơi gió thở như ngực người yêu đến.

Đối với đời, nhà thơ say đắm bao nhiêu thì đối với tình yêu lứa đôi, ông cũng mạnh mẽ bấy nhiêu:

Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi.

Chỉ hai câu thơ mà tiếng nhớ vang vọng bao lần, nhớ từ tiếng nói, tiếng cười, đến cả dáng đứng, bước đi vì: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Yêu đến cuồng nhiệt, đến mức không còn gì để diễn tả hơn được nữa. Nhưng cũng có lúc nhà thơ tự thì thầm:

Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.

Và tình yêu mãnh liệt ấy không được đáp lại, nhà thơ cảm nhận sâu sắc sự cô đơn:

Dẫu tin tưởng: chung một đời, một mộng
Anh là anh, em vẫn cứ là em

Chỉ thì thào, rủ rỉ, nhẹ nhàng thế thôi, nhưng là cả một nỗi hờn tủi, trách móc, buồn bã. Nỗi buồn của nhà thơ xuất phát từ một con người giàu khát khao yêu đương, say đắm với tình yêu. Điều đó góp phần tạo nên sức hấp dẫn lớn lao của thơ Xuân Diệu đối với bao thế hệ độc giả, đặc biệt là đối với tầng lớp thanh niên. Đồng thời, nó cũng ghi nhận sự đóng góp độc đáo, mới mẻ của ông trong lịch sử phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

Các bài học liên quan
Đề bài: Phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” (trích “Rô-mê-ô và Giu-li-ét”) của sếch-xpia.
Đề bài: “Vấn đề Đôi mắt đã được đặt ra từ trước Cách mạng qua các tác phẩm của ông”. (Nguyễn Hoành Khung) Dựa vào những tác phẩm đã học và đọc thêm của Nam Cao, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề bài: Phân tích bi kịch của người tri thức nghèo trong xã hội cũ qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao, từ đó nếu giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Đề bài: Phân tích truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật