Đề bài: Phân tích hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ Tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương

Thân phận bất hạnh, đau khổ, bẽ bàng của người phụ nữ là một đề tài khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học trung đại, viết về số phận con người, đặc biệt là thân phận éo le của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến suy tàn. Tự tình (bài II) thể hiện tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước tình cảnh hẩm hiu, éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ.

BÀI LÀM

Thân phận bất hạnh, đau khổ, bẽ bàng của người phụ nữ là một đề tài khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học trung đại, viết về số phận con người, đặc biệt là thân phận éo le của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến suy tàn. Tự tình (bài II) thể hiện tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước tình cảnh hẩm hiu, éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Đầu bài thơ, tác giả đã cho thấy người phụ nữ cô đơn, một mình lạnh lẽo, trong đêm khuya vắng nghe tiếng trống:

           Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non

Một không gian rộng lớn, bao quanh người phụ nữ với tiếng trống báo thời khắc đi qua. Đêm khuya thanh vắng là thời điểm con người thường đối diện với chính bản thân mình, để xót thương, để tư vấn. Đó là lúc những âm vang của cuộc đời dường như không tác động đến con người, song con người lại cảm nhận được bước đi của cuộc đời một cách sâu sắc nhất. Đọc Truyện Kiều, độc giả dễ dàng nhận ra khoảng thời gian ấy xuất hiện rất nhiều. Thúy Kiều đã từng đối diện lòng mình trong đêm khuya ở nhiều cảnh huống khác nhau: sau khi tảo mộ, gặp Kim Trọng (Một mình lặng ngắm bóng nga / Rộn đường gần với nỗi xa bời bời...),lúc đã quyết định bán mình chuộc cha (“Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn /Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”), khi thất thân bởi Mã Giám Sinh (“Đêm xuân một giấc mơ màng / Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ / Nỗi riêng tầm tã tuôn mưa”), hoặc lúc ở lầu xanh (“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh / Giật mình mình lại thương mình xót xa”)... Trong Tự tình (bài II), nhân vật trữ tình cũng chọn cách đối diện như thế. Tiếng trống canh chỉ “văng vẳng”, tức người nghe phải lắng tai nghe, nhưng nhịp điệu của nó thì đã qua đầy đủ, với tất cả sự hối hả, thúc giục (trống canh dồn)... “Văng vẳng” chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, và cả cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Từ “dồn” diễn tả thời gian với những bước bước đi, nhanh dồn dập, gấp gáp, thôi thúc. Người đàn bà trong đêm khuya vắng lặng, yên tĩnh, đối diện với chính mình, trở nên lẻ loi cô đơn, trong lòng trống vắng, với bóng tối bao trùm không gian. Tác giả đã diễn tả tâm trạng của người vợ lẽ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến, từ trở trong cách kết hợp “trơ cái hồng nhan” vừa cho thấy tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ cho thân phận éo le, cay đắng mà còn thể hiện sự thách thức, thể hiện bản lĩnh của Hồ Xuân Hương. Nỗi đau buồn đã lên đến cực độ. Từ “cái” gắn liền với từ “hồng nhan” làm cho giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng xót xa, cay đắng, tình cảnh lẻ loi, cô đơn của người phụ nữ trong đêm thanh vắng, sự cô đơn trước vũ trụ và sự thách thức của Hồ Xuân Hương với xã hội, cuộc đời.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
     Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện qua việc uống rượu giải sầu cho quên sự đời, quên đi tình yêu lỡ làng. Đêm khuya, tìm đến rượu, một mình đối diện với vầng trăng và cảm nhận bước đi của thời gian u hoài cũng là tâm trạng mà ta đã từng bắt gặp ở tác giả Đặng Dung trước đó bốn trăm năm

Thế sự du du nại lão hà,
          Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
     (Việc đời bối rối tuổi già vay,
         Trời đất vô cùng, một cuộc say)
                                                 (Cảm hoài)

Nhưng có khác là tác giả Đặng Dung là đấng trượng phu, một người anh hùng thất thế đang đớn đau trước dòng đời tuôn chảy trong sự bất lực của chính mình. Còn ở Tự tình (bài II) là nỗi lòng của người phụ nữ khi tình duyên lỡ làng, duyên phận hẩm hiu. Nhân vật trữ tình tìm đến rượu với mong ước có thể quên đi thực tại tủi sầu nhưng say lại tỉnh, uống rượu nhưng đâu có giải được sầu, mà chỉ làm cho nỗi buồn thêm sâu sắc, đong đầy, tâm trạng càng cay đắng hơn. Câu thơ của nữ sĩ gợi nhớ một ý thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:

           Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu

Rượu khiến nhân vật trữ tình càng nhận ra tâm trạng phũ phàng, thân phận hẩm hiu, bạc bẽo của chính mình. Men rượu đậm đà hương vị “cay cay”, “ngòn ngọt” như tình yêu chứa đầy hạnh phúc đầy đau khổ được hòa quyện vào nhau. “Vầng trăng bóng xế”, đêm đã gần tàn, trăng là nhân chứng tình duyên, hẹn thề ước của những đôi yêu nhau. “Khuyết chưa tròn” là hạnh phúc tình yêu chưa tràn đầy. Trăng còn là biểu tượng cho mùa xuân, ngày tháng cứ trôi đi, trôi mãi. Tuổi xuân đi qua nhưng hạnh phúc chưa đầy. Tâm trạng đau đớn, xót xa cay đắng cho một tình duyên dở dang, muộn màng. Nếu ở bốn câu thơ đầu, tác giả diễn tả tâm trạng của người phụ nữ chờ mong chồng và nỗi tuyệt vọng trước “tình” và “cảnh” với một trái tim như lạnh giá, cần hơi ấm trái tim của.người chồng thì ở hai câu luận:

   Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

tác giả đã bất ngờ khác họa tâm trạng dồn nén muốn phản kháng. Hình ảnh thiên nhiên như rêu, đá, đất, mây cũng như mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Rêu là loại sinh vật rất nhỏ, yếu ớt nhưng có thể “xiên ngang mặt đất”, mấy hòn đá vượt lên “đâm toạc chân mây”. Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với các động từ mạnh như “xiên”, “đâm” càng tô đậm bản lĩnh, sức sống mãnh liệt của cảnh vật và của cả nhân vật trữ tình. Con người ấy đang trải qua nhiều bi kịch vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn chua xót. Đêm đã về khuya, giữa cảnh thiên nhiên dào dạt, bộn bề mịt mùng bao la ấy, người đàn bà với duyên phận hẩm hiu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Những dồn nén, buồn bực đã phải nén:

 Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại’. Điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến Hồ Xuân Hương không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình”. Chữ “ngán” thể hiện nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì quá lứa, đang trải qua sự mòn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, xé nát thành nhiều “mảnh”, thế mà chua chát thay vẫn chỉ được “san sẻ tí con con”. Câu thơ như một tiếng thở dài buông xuôi theo dòng đời xót xa, tội nghiệp. Mỗi chữ như rưng rưng những giọt lệ chua xót.

Bài thơ là tâm sự nghẹn ngào, lời than thở cho số phận hẩm hiu, thân phận trôi nổi, bấp bênh đồng thời thể hiện khát vọng ước mơ được quyền sống tự do, hạnh phúc của người phụ nữ. Bài thơ còn tố cáo phê phán chế độ phong kiến và đề cao phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ đầy mạnh mẽ, cá tính. Lịch sử đã chứng minh sự phản kháng và cảm thông của bà với thân phận của người phụ nữ là con đường chính đáng, tiến bộ. Nữ sĩ đã đi những bước thật dài trước thời đại của bà. Tiếng thơ Của Hồ Xuân Hương đã vượt không gian và thời gian, sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ.

Các bài học liên quan
Đề bài: “Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng. Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra ” (Bùi Minh Quốc)
Đề bài: Đọc bài thơ “ Quán hàng phù thủy” K. Badjadro Ấn Độ.  Một phù thủy... Còn quả chín, anh phải trồng, không bán (Thái Bá Tân Dịch)  Anh chị có suy nghĩ gì về ý nghĩa triết lí của bài thơ trên trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề dạy và học thêm trong trường, ngoài xã hội và của chính bản thân mình trong thời điểm hiện tại.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật