Đề bài: Có nhận định cho rằng: “Kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở một hồn thơ nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời giúp Xuân Diệu khám phá được những biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm của con người..

Trong chúng ta có lẽ không mấy ai không biết đến những câu thơ của Xuân Diệu, những câu thơ khiến cho bao thế hệ trẻ phải say đắm.

Đề bài: Có nhận định cho rằng: “Kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở một hồn thơ nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời giúp Xuân Diệu khám phá được những biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm của con người và thể hiện được trong những vần thơ ở lời, nhưng súc ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu là tinh hoa ” (Thế Lữ). Bằng sự hiểu biết về thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.

BÀI LÀM

Trong chúng ta có lẽ không mấy ai không biết đến những câu thơ của Xuân Diệu, những câu thơ khiến cho bao thế hệ trẻ phải say đắm. Điều gì đã giúp Xuân Diệu giành được sự ái mộ, say mê của bạn thơ? về điều này Ngữ văn 11 đã nói rất rõ: “Kinh nghiệm Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, kết tinh ở một hồn thơ nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời giúp Xuân Diệu khám phá được những biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như một tâm hồn con người và thể hiện được trong những vần thơ ít lời, những súc ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu là tinh hoa” (Thế Lữ).

Kinh nghiệm Đông và Tây, hay nói cách khác là truyền thống và hiện đại lại được “kết tinh ở một hồn thơ nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời”, những điều kiện tuyệt vời đó đã khiến cho Xuân Diệu “khám phá được những biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm của con người” và viết nên những câu thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích nhưng đọng lại bao nhiêu là tinh hoa”. Chính sự kết hợp hài hòa truyền thống và hiện đại giữa tài năng và tâm hồn đã giúp Xuân Diệu viết nên những câu thơ đạt đỉnh cao trong sự tương ứng giữa nội dung và nghệ thuật. Vậy thì làm sao mà không nhớ, không yêu, không say mê những câu thơ như vậy. Đương thời, khi Xuân Diệu mới xuất hiện, Hoài Thanh đã viết: “Xuân Diệu đã đến giữa chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê vẫn chưa ngớt. Người khen, khen hết mức, người chê, chê không tiếc lời’. Sống với những người chê Xuân Diệu có thể trả lời theo kiểu Lamartin “Đã có những thanh niên, thiếu nữ hoan nghênh tôi” (Hoài Thanh).

Vốn sinh ra và lớn lên ở một thời đại phức tạp “ u - Á tranh nhau, Đông -Tây xáo trộn” mà trong đó phương Tây đang dần thắng thế, Xuân Diệu đã hấp thụ một nền văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp, và chịu ảnh hưởng sâu đậm thi ca Pháp là một điều tất yếu. Song, vốn xuất thân trong một gia đình nhà nho mà bố ông là ông đồ xứ Nghệ nên ảnh hưởng của phương Đông vẫn bật rễ sâu trong lòng Xuân Diệu, mặc dù không bằng ảnh hưởng của tư tưởng thẩm mĩ phương Tây. Có như vậy thì chúng ta mới có những câu thơ lục bát dân dã và duyên dáng này:

Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn...
                                            (Chiều)

Những câu thơ lục bát của ông cha để lại vào thơ Xuân Diệu thật nhuần nhuyễn, tự nhiên. Nỗi buồn “ngẩn ngơ”, “hiu hiu” trong buổi chiều tà này cũng rất gắn với buổi chiều qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, một nỗi buồn truyền thống. Song với Xuân Diệu thì nỗi buồn ấy có những nét khác biệt, nó run rẩy, nhẹ nhàng muốn nép mình lại, Mối rung cảm tinh tế này, ta dường như chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu.

Và những câu thơ, tư tưởng quá mới của Xuân Diệu, ta cũng bắt gặp một chút “hương hồn xa xưa của đất nước” nghìn năm văn vật: “Hơn một loài hoa đã rụng cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”. “Hơn một”, “rũa” - những cách dùng từ rất Tây - khiến cho câu thơ mang sắc thái khác hẳn so với thơ cổ điển. Song nỗi buồn mùa thu, nỗi buồn muôn thuở của văn chương cứ lộ ra kín đáo trong sự hoang mang tàn héo hon dần của cây cỏ...

Có thể nói trong những câu thơ tuyệt đỉnh của Xuân Diệu, có cả những câu Thơ mới và cũ, và trọng cái cũ thì lại có cái mới, trong cái mới vẫn có cái cũ. Cái cũ và cái mới đan cài vào nhau trong câu thơ và trong con người thi sĩ của Xuân Diệu. Sự kết tinh của hai nền văn hóa Đông và Tây lại giao nhau đứng ở một tâm hồn nghệ sĩ đầy khát khao giao cảm với đời, đầy nhiệt huyết rạo rực với cuộc sống thì thành công là điều tất yếu. Với Xuân Diệu, điều kì diệu nhất là cuộc sống với tất cả những nhận xét bình dị và trong trẻo, nồng nàn nhất của nó với một trái tim bốc lửa cho tới phút chót cuộc đời vẫn yêu đến cuồng nhiệt:

Xin hãy cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở cuối dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.
                                  (Không đề)

Tâm hồn của ông luôn khát khao khẩn thiết đến đau đớn (ý của Hoài Thanh). Với ông, người thi sĩ là một con người kì lạ do thượng đế sinh ra và được ban phát cho những khả năng nghe được cái gì mà người thường không nghe được, thấy được cái mà người thường không thấy được. Thi sĩ là người đem lại cái đẹp huyền diệu của cõi đời sáng láng siêu nhiên tới cõi trần, tới những con người bình dị. Cõi trời ở đây hoàn toàn không phải cõi tiên: “Với Thế Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa, Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới” (Hoài Thanh). Cõi trời ở đây là những điều đẹp đẽ, màu nhiệm nhất của cuộc sống và con người. Người lắng nghe những tiếng nói “huyền diệu” trong tất cả đất trời với tất cả tâm hồn mình:

Hãy lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Như hương thấm tận qua xương tủy
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.

Và khi khúc nhạc đã ngừng, lòng nhà thơ vẫn run hoài cái run rẩy rất Xuân Diệu “Lòng cứ run hoài như chiếc lá”. Với tâm hồn, với niềm khát khao giao cảm với đời đó, Xuân Diệu đã hiểu thấu, đã nghe, đã thấy những rung động "biển thái linh vị của thiên nhiên cũng như nội tâm của con người". Thiên nhiên hay lòng người thì cũng là một vậy thời, trong cái run rẩy của cành lá có run rẩy của nỗi lòng thi sĩ, trong cái buồn thảm của thi sĩ, của con người thì thiên nhiên cũng ngẩn ngơ, lạnh lẽo: “Những luồng run rẩy rung rinh lá. Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”. “Câu thơ đọc lên làm người ta xuýt xoa trước hết vì cái lạnh, sau vì hay” (Vũ Quần Phương). Cái gọi rất nhẹ của lá cành trước một cơn gió mùa thu nhẹ nhàng cũng không qua khỏi mắt thi sĩ, cái rùng mình khe khẽ, cái “run rẩy rung rinh” ấy đã được nhà thơ tóm gọn vào hai câu thơ, ta thấy được cả cái thần thái của mùa thu. Thơ Xuân Diệu ít lời, nhiều ý, súc tích là vì vậy.

Dường như, cơn gió thu không phải là nguyên nhân của cái rùng mình của cành lá mà cành lá đang run lên trước những luồng rét bất chợt của mùa thu. Lòng thi sĩ cũng run lên... Chỉ có Xuân Diệu mới nghe được tiếng lòng của những kẻ yêu nhau như vậy: “Buổi ấy lòng ta nghe ý hạn. Lần đầu rung động nỗi thương yêu”. “Lần đầu rung động”... tiếng nói không còn có hiệu lực và trở nên thô thiển. Bởi vậy, Xuân Diệu đã nghe, nghe được tất cả tâm hồn nhạy cảm của mình và anh đã nghe được sự rung động của sợi dây tình cảm.. Thi sĩ nghe trong lòng và nghe trong ý:

Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.

Xuân Diệu đã nghe được cảm nhận được sự hài hòa giữa hai tâm hồn mà bề ngoài tưởng như là “điềm nhiên” ấy, cảm nhận được sự hòa hợp, gắn bó của hai tâm hồn đồng điệu. Ai hỏi thơ Xuân Diệu thiên về cảm giác, đúng vậy, nhưng ở đây Xuân Diệu đã vượt lên trên cảm xúc mà đi đến cả một thế giới tâm hồn huyền diệu.

Trong thơ Xuân Diệu, ta thấy được cả thế giới nội tâm con người đầy bí ẩn với mọi cung bậc tình cảm của nó. Song “Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết” (Hoài Thanh). Nỗi buồn trong người kĩ nữ dường như đã tới cùng cực:

Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.

Thế giới phủ đầy băng giá, phủ đầy ánh trăng sáng tới lạnh lẽo, tới ghê người. Câu thơ gợi một nỗi buồn rờn rợn. Chỉ con người Xuân Diệu mới nghe được nỗi buồn từ thấp lên cao trong lòng người kĩ nữ cô đơn kia. Bởi vì Xuân Diệu có một tâm hồn nhạy cảm và tràn đầy tình thương mến. Chính Xuân Diệu đã từng viết:

Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
                                        (Cảm xúc)

Có thể nói, “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu đắm say tình yêu, đắm say cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng hết cuộc đời ngắn ngủi của mình”. (Hoài Thanh).

Nguồn sống dạt dào đó lại được thể hiện trong những câu thơ kết tinh giữa hai luồng nghệ thuật Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, những câu thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu tinh hoa”. Nghe qua tưởng chừng như mâu thuẫn: cổ điển lại kết hợp với hiện đại? Nguồn sống mạnh mẽ lại nằm trong những câu thơ ít lời hàm súc? Nhưng Xuân Diệu đã vượt lên những lẽ thường tình đó mà viết lên những câu thơ “còn lại mãi với thời gian”:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân …
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

Nhà thơ say sưa yêu và muốn tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống, nhà thơ vội vàng, cuống quýt “mau lên chứ, vội vàng lên với chứ”, nhà thơ tiếc nuối trước bước đi của thời gian. Vì cảm nhận được rất rõ bước đi của dòng chảy rất khắc nghiệt, Xuân Diệu đã đi trước cả thời gian “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Hai câu thơ là cả một triết lí, một phép suy luận biện chứng và thời gian rất mới mẻ làm kinh ngạc cả thế giới bây giờ. Thơ Xuân Diệu ít lời, nhiều ý, súc tích là vậy.

Cái đáng quý nhất của hồn thơ Xuân Diệu mà ta nhận thấy đó là một tâm hồn tràn ngập tình yêu cuộc đời, yêu con người với tình yêu và tuổi trẻ. Bởi tình yêu đó mà thi sĩ đã làm nên tất cả. Bởi tình yêu đó mà thi sĩ được người đời sau mãi mãi ngưỡng mộ nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên và nội tâm con người và làm nên những câu thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu lệ tinh hoa” (Thế Lữ).

Các bài học liên quan
Đề bài: Hãy làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.
Đề bài: Phân tích cái “ngông” trong “Hầu Trời” của Tản Đà.
Đề bài: Chứng minh rằng, truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc, như có nhà nghiên cứu đã nhận định, là một khi tình xuất sắc thể hiện sự kết hợp giữa chính trị và văn chương trong sự nghiệp sáng tác của Bác Hồ.
Đề bài: Phân tích đoạn trích “Tình yêu và thù hận” (trích “Rô-mê-ô và Giu-li-ét”) của sếch-xpia.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật