Đề bài: Cảm nhận về bài “Về luân lí xã hội ở nước ta” của Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh - nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Ông đã đi khắp trong nước và sang Trung Quốc, Nhật Bản để xem xét thời cuộc. Ông chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân chủ, khai thông, dân trí, mở mang công thương nghiệp.
- Bài học cùng chủ đề:
- Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta, trang 84 SGK Văn 11
- Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta - Ngắn gọn nhất
- Về luân lí xã hội ở nước ta (trích Đạo đức về luân lí Đông Tây của Phan Châu Trinh) toát lên dũng khí của một người yêu nước và bộc lộ phong cách chính luận độc đáo. Anh (chị) hãy làm rõ văn kiện trên qua phân tích đoạn trích
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
Phan Châu Trinh - nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Ông đã đi khắp trong nước và sang Trung Quốc, Nhật Bản để xem xét thời cuộc. Ông chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân chủ, khai thông, dân trí, mở mang công thương nghiệp. Phan Châu Trinh viết nhiều, bằng cả chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Ông nổi tiếng với 1 những áng văn chính luận sắc sảo, những vần thơ thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ.
Về luân lí xã hội ở nước ta là đoạn trích trong phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây, được Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên I (Sài Gòn) vào đêm 1911 - 1925. Luân lí xã hội là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn quan tâm đến cả thế giới. Ông chỉ ra trong xã hội Việt Nam, cả luân lí quốc gia mà cốt lõi là ý thức dân tộc đều tiêu vong. Như thế thì luân lí xã hội đối với người nước ta lại càng trở nên xa lạ. “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì”. Bắt đầu từ cách đặt vấn đề bằng hình thức phản đề như thế, cách lập luận của tác giả buộc người đọc phải tìm hiểu, cắt nghĩa, lí giải.
Luân lí xã hội được trình bày trong đoạn trích là tinh thần sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác. Lời sách Nho xưa đã dạy “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Như thế, sửa nhà, trị nước rồi mới yên thiên hạ. Đó là hệ thống tư tưởng đã ăn sâu vào cơ chế của nhà nước phong kiến. Nhưng “ngày nay, những kẻ học giả ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó (thiên hạ) nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đây thôi. Cái chú ý bình thiên hạ đã mất đi từ lâu rồi”, tác giả thể hiện thái độ châm biếm, khinh bỉ đối với bọn đạo đức giả trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Phan Châu Trinh khẳng định tinh thần hợp tác của con người vượt lên các ranh giới dân tộc và lãnh thổ, khẳng định cần phải xây dựng nền luân lí xã hội học phương Tây trên cơ sở truyền thống dân tộc. Ông chỉ rõ bên phương Tây, luân lí phát triển trên ba giai đoạn: từ gia đình lên quốc gia đến xã hội. Xuất phát từ quan niệm đó, Phan Châu Trinh chỉ ra trong xã hội Việt Nam thời bây giờ (thời Pháp thuộc), cả luân lí gia đình lẫn luân lí quốc gia (cốt lõi là ý thức dân tộc) đều tiêu vong. Bởi vậy, khái niệm luân lí xã hội đối với người Việt Nam lại càng trở nên xa lạ. “Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với nhau đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả”. Không có luân lí xã hội bởi người nước mình không biết đoàn kết liên hiệp lại với nhau, “phải ai tai nấy, ai chết mặc ai”; Không có luân lí xã hội bởi người nước mình “không biết đến đoàn thể, không trọng công ích”. Đồng thời tác giả nêu ra đưa nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích: “dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết trọng công ích” nhưng rồi lũ vua quan phản động thối nát ham quyền tước vinh hoa đã tìm cách “phá tan tành đoàn thể của quốc dân”.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh căn bệnh cố hữu của người nước ta là ham quyền lực và sợ quyền thế: “bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa... sinh ra giả dối, nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân”; Không có luân lí xã hội vì giai cấp thống trị, kẻ “mang đai đội mũ”, kẻ “áo rộng khăn đen” để mặc dân cực khổ, nô lệ, mà tha sức “vơ vét”, “rút tỉa”. Ngày xưa, thời nho học, bọn chúng là “cử nhân”, “tiến sĩ”; ngày nay thời Tây học chúng là “kỉ lục”, “thông ngôn”. Quan lại chính là một “lũ ăn cướp có giấy phép”. Tác giả hướng mũi nhọn đả kích vào bọn chúng, với những cách gọi tên: “bọn học trò”, “kẻ mang đai đội mũ”, “kẻ áo rộng khăn đen”, “bọn quan lại”, “bọn thượng lưu”, đã bộc lộ thái độ căm ghét cao độ của Phan Châu Trinh đối với tầng lớp quan lại Nam triều. Trong mắt ông, chế độ vua quan chuyên chế vô cùng tồi tệ, cần phải phủ định triệt để.
Cuối cùng tác giả đi đến khẳng định “nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá chủ nghĩa xã hội trong dân Việt Nam này. Bởi có đoàn thể cũng chính là gây dựng tinh thần đoàn kết, tinh thần bình đẳng của con người trong xã hội. Đó cũng là sự xây dựng luân lí xã hội của người nước mình.
Bài diễn thuyết đã thể hiện tài năng viết văn chính luận của Phan Châu Trinh. Tác giả đã chú ý đến việc đưa ra các lí lẽ, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể kết hợp với các câu cảm thán thể hiện cảm xúc chân thành của người nói. Cái nhìn của tác giả là cái nhìn trung thực khách quan, phân tích rạch ròi những mặt xấu, mặt hại của người nước mình để từ đó có khả năng thức tỉnh tinh thần và ý thức họ, Theo quan niệm dân chủ công khai, Phan Châu Trinh chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ với một thái độ phê phán nghiêm khắc.
Mỗi một lí lẽ đưa ra của tác giả đều là một cách bác bỏ sự tồn tại của thể chế phong kiến mục ruỗng, lạc hậu. Các lí lỗ-chặt ..chẽ, sắc bén kết hợp với những câu văn cảm thán tạo ra sức thuyết phục cao của văn chính luận. Tác giả vừa phê phán nghiêm khắc, vừa đau lòng, thấy cần phải chi ra sự hèn kém của dân mình, nước mình. Trạng thái cảm xúc cũng như tình cảm, phẩm chất của người diễn thuyết vì thế cũng được bộc lộ rõ. “Thương hại thay!” Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy !”; “Luân lí của bọn thượng lưu... ở nước ta là thể đẩy Kì “Thương ôi!, “ôi!”... Vì thế đến với Về luân lí xã hội ở nước ta, người đọc không có cảm giác khô khan giáo điều mà cảm nhận được những rung động chân thành, những phân tích sắc sảo cụ thể, sinh động. Bao nhiêu xúc cảm xót xa, căm hận như trào lên đầu ngọn bút khẳng định một trái tim yêu nước thiết tha của tác giả.
Đoạn trích thể hiện tâm huyết của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh đối với dân tộc, đất nước - một trí thức am hiểu sâu sắc nhược điểm lớn của dân tộc. Về luân lí xã hội ở nước ta cũng thể hiện tài năng nghị luận sắc sảo của tác giả, góp phần đáng quý vào tiến trình phát triển của dòng văn học yêu nước những năm đầu của thế kỉ XX. Qua đoạn trích, tác giả muốn khẳng định việc gây dựng nền luân lí xã hội là nền tảng đạo đức, nền tảng cho sự nghiệp giành độc lập, tự do của Tổ quốc.
- Tuần 1 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 2 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 3 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 4 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 5 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 6 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 7 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 8 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 9 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 10 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 11 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 12 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 13 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 14 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 15 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 16 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 17 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 18 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 19 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 20 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 21 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 22 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 23 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 24 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 25 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 26 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 27 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 28 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 29 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 30 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 31 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 32 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 33 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 34 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 35 sgk ngữ văn lớp 11
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo