Đề bài: Một trong những nét phong cách nổi bật của thơ Hồ Chí Minh là “hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai”. Hãy chứng tỏ qua hai bài thơ “Chiều tối” “Giải đi sớm” trong “Nhật kí trong tù” của Bác

Thơ Bác mang vẻ đẹp cổ điển giống như thơ xưa, nhưng lại có nhiều điểm sáng tạo mới mẻ theo cảm quan cách mạng. Nổi bật nhất đó là sự vận động trong hình tượng thơ. Trong thơ Bác, “hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai”. Có thể thấy điều này trong tập Nhật kí trong tù, mà tiêu biểu là hai bài thơ: Chiều tối và Giải đi sớm.

BÀI LÀM

Thơ Bác mang vẻ đẹp cổ điển giống như thơ xưa, nhưng lại có nhiều điểm sáng tạo mới mẻ theo cảm quan cách mạng. Nổi bật nhất đó là sự vận động trong hình tượng thơ. Trong thơ Bác, “hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai”. Có thể thấy điều này trong tập Nhật kí trong tù, mà tiêu biểu là hai bài thơ: Chiều tối và Giải đi sớm.

Đã là thơ thì phải có hình tượng. Một bài thơ có thể có nhiều hình tượng nhưng bao giờ cũng chỉ có một hình tượng chính - hình tượng trung tâm của bài thơ. Khi nói về sự vận động của hình tượng thơ là nói về sự vận động của hình tượng trung tâm, mà nhiều người còn gọi là tứ thơ. Sự vận động này phản ánh tâm hồn thơ của thi nhân: khỏe khoắn, lạc quan, yêu đời hay yếu đuối, buồn chán, bi quan.

Bác là một tâm hồn thơ cộng sản, một nhà thơ cách mạng nên sự vận động của hình tượng thơ luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai - mặc dù thơ Người được viết ra trong bóng tối nhà lao hay trên những nẻo đường giải tù gian truân, vất vả. Sự vận động của hình, tượng thơ trong bài Chiều tối và Giải đi sớm đã cho ta thấy điều đó.

Chiều tối thuộc đề tài giải tù. Lúc ấy chiều đã muộn, người tù Hồ Chí Minh đang lặng lẽ bước chân xiềng xích nơi rừng núi hẻo lánh trên đất khách quê người, sau một ngày gian truân, vất vả, Bác nhìn thấy gì trong buổi chiều tối ấy:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Một cảnh chiều buồn vắng mênh mang như tâm trạng cô đơn, mệt mỏi của người tù lúc ấy. Trong nguyên tắc, Bác nói rõ đó là chòm mây cô đơn đang trôi chầm chậm trên bầu trời như vừa trôi, vừa suy nghĩ: “Cô vân mạn mạn độ thiên không“. Chòm mây như một sinh thể có hồn, chứa đầy tâm trạng của con người. Với hai nét chấm phá, thi nhân như đã nói lên được linh hồn của cảnh vật. Cảnh chiều muộn hiện ra trước mắt ta buồn thấm thía trong cái xa vắng mênh mông của núi rừng hẻo lánh đã bị bóng tối dần dần bao phủ. Lòng Bác đã bắt gặp cánh chim mỏi và chòm mây cô đơn. Đó là nỗi buồn, sự mệt mỏi có thực của Bác khi lê những bước chân nặng trĩu trên đường giải tù nơi đất khách quê người vào lúc chiều muộn ấy.

Nhưng tứ thơ bỗng thay đổi đột ngột và hình tượng thơ có sự vận động kì lạ. Cảnh chiều muộn đang buồn là thế, bỗng chuyển sang một cảnh sinh hoạt tươi vui, đầm ấm, đầy sức sống của con người bên xóm núi:

Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.

Nhịp điệu câu thơ dường như cũng vui lên, dạt dào sức sống trong hình ảnh khỏe khoắn của cô gái, trong nhịp quay của cối xay ngô, “ma bao túc” , rồi lại “bao túc ma hoàn”; và tất cả đã bừng sáng lên trong ánh lửa rực hồng của lò than. Sự vận động của hình tượng thơ ở đây có một cái gì bất ngờ và khỏe khoắn: từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn sang vui, từ lạnh lẽo, cô đơn đến ấm nóng. Và trên cảnh thiên nhiên rộng lớn, con người, sự sống của con người, ngọn lửa của con người bỗng trở thành tụ điểm, thành trung tâm. Điều đó thể hiện tâm hồn Bác luôn hướng về tương lai, về ánh sáng và sự sống ấm áp.

Ở bài Giải đi sớm, ta thấy cũng có sự vận động như thế trong hình tượng thơ. Nếu khổ một là cảnh “đêm tối, gió lạnh, đường xa”; thì khổ hai là cảnh “bình minh ửng hồng, thời tiết ấm áp”.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh diễn tả khung cảnh đêm giải tù: thời gian, không gian, sự vận động của trăng sao:

Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn

Cảnh sinh động mà không náo nhiệt, vui mà không ồn ào. Có được điều đó chủ yếu do từ “quần” và “ủng” với ý nghĩa sum vầy, quấn quýt tạo nên... Nhưng điều đáng nói ở đây là tư thế, tầm nhìn của tác giả: cái tầm nhìn cao cùng tư thế khoan thai ung dung, lòng tràn đầy chất thơ ấy trong cảnh ngộ tù đày là điều không dễ có ở con người. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”, nhưng vì tâm hồn thi sĩ luôn lạc quan nên cảnh cũng thật tươi vui và ấm áp chứ không quạnh hiu, buồn bã.

Ở hai câu tiếp, hình tượng người tù trên đường được diễn tả ở tư thế chủ động đối diện với những vất vả, gian khổ. Con người tự nâng mình lên trên hoàn cảnh, không để cho hoàn cảnh khuất phục mình:

Chính nhân dĩ tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn
(Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt đêm thu, trận gió hàn).

Người ở đây là người tù, là Bác, nhưng đã trở thành hình tượng của người đi đường (chinh nhân). Con đường giải tù cũng tượng trưng cho con đường cách mạng. Nỗi gian khổ của người tù tượng trưng cho nỗi gian khổ của người chiến sĩ cách mạng tiền bối:

Khổ thơ đầu đã dựng lại bức tranh chuyển lao trong đêm tối với hình ảnh của người tù hiên ngang bất khuất trước những gian truân trên đường giải tù. Đó là ý nghĩa tả thực. Sang khổ thơ thứ hai, tứ thơ vận động một cách lạ lùng. Người tù từ đêm tối đã bước ra ánh sáng đến buổi bình minh thật là tươi đẹp:

Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn, quét sạch không.

Tứ thơ chuyển đột ngột, nhưng vẫn biện chứng vì người tù bị giải đi từ khuya đến sáng, trăng sao vận động, tất yêu đến buổi bình minh. Nhà thơ quan sát tinh tế sự chuyển đổi màu sắc, từ màu đen (màu của đêm tối) đến trắng (màu lạnh), từ trắng chuyển sang hồng (màu nóng). Không còn đâu là cảnh đêm đen rét mướt khổ ải. Bóng tôi đã bị quét sạch, buổi bình minh thật là tươi sáng, ấm áp:

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.

Màu hồng tươi sáng, ấm áp đã bao trùm cả sông núi, cả đất trời và hơi ấm trùm vũ trụ ấy cũng thấm vào lòng người. Không có hình bóng của người tù mà chỉ có người thi sĩ trước buổi mai tươi đẹp với thi hứng dào dạt.

Cái hay của khổ thơ này là buổi bình minh được tượng trưng cho bức tranh toàn cảnh của Tổ quốc trong tương lai khi cách mạng đã thắng lợi. Nếu "người đi" trên kia tượng trưng cho người chiến sĩ cách mạng tiền bối đầy gian khổ, thì “người đi” trong đoạn hai lại tượng trưng cho người chiến sĩ cách mạng lúc toàn thắng. Người chiến sĩ biểu hiện được cốt cách tuyệt vời của mình: chiến sĩ - thi sĩ.

Hình tượng thơ vận động theo hướng đi lên, hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai khiến cho buổi bình minh của thời tiết bỗng có khí thế như buổi bình minh của lịch sử. Đó là do tâm hồn của thi nhân rất khỏe khoắn, lạc quan và yêu đời, dù đang bị đày đọa trong cảnh tù tội, gian truân, vất vả - như nhận xét của Hoài Thanh: “Không thể nào có được những nét bút hùng tráng như vậy nếu không có sẵn trong lòng một niềm tin sắt đá về một bình minh lớn lao trong lịch sử”.

Niềm tin sắt đá đó đã tạo nên cái tư thế “nghênh diện thu phong trận trận hàn” của người chiến sĩ cách mạng và cái tứ thơ lai láng, tràn đầy trong lòng nhà thơ Hồ Chí Minh. Cả hai bài thơ là hình ảnh con người đi trên đường xa, đi từ bóng tối đến bình minh, từ gian khổ đến niềm vui và đây là con đường gian khổ lâu dài nhưng tất thắng của cách mạng. Không thấy người tù đâu mà chỉ thấy hình ảnh người chiến sĩ cách mạng đang lên đường vì đại nghĩa. Sự vận động trong hình tượng thơ đã đem đến cho người đọc niềm lạc quan, tin tưởng.

Không phải đến Nhật kí trong tù mới có thơ trên đường giải tù. Đề tài "đi đày" cũng đã từng có trong thơ xưa, nhưng đó là những bài thơ buồn, hiu hắt, cô đơn. Phải đến Nhật kí trong tù, ta mới gặp những bài thơ trên đường giải tù yêu đời, yêu hạnh phúc, yêu cuộc sống, lạc quan, tin tưởng, mà “hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai”, bởi đó là thơ của người tù - thi sĩ mang tâm hồn thơ của một chiến sĩ cách mạng.

Các bài học liên quan

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật