Bài số 34: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc.

BÀI LÀM 1

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Nhà thơ Huy Cận đã từng gọi bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (1958) của mình là "khúc tráng ca". Quả đúng như vậy, bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động trong sự hài hòa với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kì vĩ. Không còn thấy dấu vết của một "nỗi buồn thế hệ" cô đơn, li tán đã từng dằng dặc, triền miên trong thơ ông hồi trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ thực sự là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng. Và đây là cảnh ra khơi:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hòa cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

Hát rằng: cá bạc biển đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như hòa mình vào thiên nhiên, công việc, và con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm tuyệt đẹp. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “ biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng... lưới! Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngàn vang: lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy ...Với ngư dân, biển cả bao la “như lòng mẹ”, bởi vậy thiên nhiên và con người thật hòa hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đốm nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng những ngư dân đang nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hòa trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang tỏa rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người.

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

 

BÀI LÀM 2

Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, Huy Cận nổi tiếng ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường Quốc học Huế. Khi những bài thơ đầu tiên của ông xuất hiện, người ta đã nhận ra một giọng điệu riêng. Năm 1940, tập Lửa thiêng ra mắt bạn đọc, Huy Cận đã là một đỉnh cao của phong trào này. Thơ ông diễn tả mối quan hệ giữa con người với vũ trụ vô biên trong những vần thơ trong sáng, vừa hiện đại vừa cổ điển, thường hàm chứa chất triết lí sâu xa.

Huy Cận hăng hái tham gia hoạt động cách mạng từ những ngày bí mật. Cách mạng thành công, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền song không lúc nào quên thơ. Có một thời gian dài sau Cách mạng, ngòi bút của ông dường như chững lại. Mãi đến năm 1958, sau đợt thâm nhập thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh, thơ Huy Cận có sự đột khởi và từ đó liên tiếp đạt những kết quả rực rỡ qua các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa... Trong giai đoạn này, nhiều bài thơ của ông được độc giả yêu mến và đánh giá là những tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn như các bài Các vị La Hán chùa Tây Phương, Buổi sáng hôm nay, Một chiều thu, Đoàn thuyền đánh cá...

Bình luận về hoàn cảnh ra đời và những nét đặc sắc của bài Đoàn thuyền đánh cá, Xuân Diệu đã viết: "Món quà đặc biệt vùng mỏ Hồng Gai - cẩm Phả cho vừa túi thơ Huy Cận là bài Đoàn thuyền đánh cá; lời thơ dõng dạc, điệu thơ cất lên tiếng hát, có cả tiếng "gõ thuyền"; hơi thở vừa kim, bởi không khí làm ăn phấn chấn, vừa cổ, cổ thế, cổ điển; những vần trắc đưa sức dội, sức mạnh của bài thơ; từ thực tế, nhưng không đóng khung trong thực tế, mà xuất phát, mà mơ mộng, có hình ảnh của biển, của mặt trời, của gió, của trăng, của không gian to rộng, cho đến mắt những con cá mà cũng "huy hoàng muôn dặm phơi", bài thơ lặp đi lặp lại năm lần chữ "hát", thực chất là một bài ca sảng khoái, phối hợp nhạc điệu với những động tác dồn dập, mở ra bằng mặt trời xuống biển, đóng lại bằng mặt trời đội biển mà lên; ở giữa là: cài then, sập cửa, ra khơi, cảng buồm, dệt biển, dàn đan thế trận, đêm thở sao lùa, kéo lưới xoăn tay, lưới xếp buồm lên, rồi "đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời" mà trở về.

Đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Ở đây, sự giao thoa giữa cảm hứng về vũ trụ và cảm hứng lãng mạn cách mạng đã tạo nên một khoảng trời mênh mông, vừa quen thuộc vừa mới lạ để ngòi bút Huy Cận tung hoành, sáng tạo. Bài thơ vừa gợi nhớ một thoáng Huy Cận thời Lửa thiêng vừa mở ra cả một thế giới mới lộng lẫy, tràn đầy hứng khởi sau người của thơ Huy Cận sau Cách mạng.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nũng.

"Kéo xoăn tay" là kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực khiến tất cả các cơ lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc một bức tượng ngư dân đầy sức sống ảnh đó lại thêm màu sắc lãng mạn khi đặt cạnh hình ảnh trong câu thứ ba:

Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông

Câu thơ có màu sắc rực rỡ nhưng bất ngờ nhất là ánh sáng "lóe rạng đông" từ đuôi những con cá kia. Nó mang lại sự thi vị, vẻ đẹp hấp dẫn của những ngư dân. Đây là cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc ra đi:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Chữ căng, chữ cùng là nói ba sự vật vốn khác nhau: câu hát, buồm gió khơi trong một liên tưởng mới mẻ để tạo nên hình ảnh đẹp, lạ, diễn đạt sự hăm hở lên đường của đoàn thuyền. Cảnh đoàn thuyền lướt trên biển cả, thả lưới đánh cá được miêu tả:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh "lái gió", "buồm trắng", "mây cao", "biển bằng", "dò bụng biển”... đã biến con thuyền đánh cá tầm thường hàng ngày thành chiếc thuyền tiên đi trong cảnh tiên. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động, cả con thuyền đánh cá, biến công việc nặng nhọc thành niềm vui, lòng yêu đời chứa chan. Cùng với chất lãng mạn bay bổng ấy, người dân chài cất lời hát tả lại công việc của mình với niềm tự hào tự tin và với tình yêu mãnh liệt:

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Nhưng huyền ảo và thần tiên hơn cả, chất lãng mạn tràn đầy hơn cả là những bức tranh về các loài cá được miêu tả ở khổ thơ thứ hai và thứ tư:

Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Mới lạ, bất ngờ là hình ảnh:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

và hình ảnh:

Cái đuôi em quầy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Cái màu "vàng chóe" chói lọi ánh trăng phản chiếu thật giàu chất sơn mài và gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm khôi phục và phát triển kinh tế, những năm đầu bước vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất là cơ sở hiện thực làm bay bổng cảm hứng lãng mạn cách mạng trong nhiều bài thơ xuất hiện vào thời bấy giờ. Cả một mạch thơ ào ào xuất hiện, Xuân Diệu nói tới màu ngói đỏ của xây dựng và niềm vui xốn xang:

Muốn trùm hạnh phúc dưới trời xanh
Có lẽ lòng tôi cùng hóa thành ngói mới

Thơ Tố Hữu nói đến "biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh", nói đến "cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt", hối thúc mọi người đi lên dựng xây đất nước. Có lẽ lãng mạn và say sưa hơn cả phải nói tới thơ của tuổi trẻ. Ở đây lãng mạn cách mạng không chỉ trong tâm tưởng, ước mơ mà biểu hiện bằng hành động thực tiễn:

Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi
Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng
Ôi miền Tây! Ở dưới xuôi, sao nghe nói ngại ngùng
Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
Tuổi hai mươi, khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi biết thấy cũng lên đường
                                 (Bùi Minh Quốc - Lên miền Tây)

Trong bản hòa tấu đầy cảm hứng lãng mạn ấy có Đoàn thuyền dành cá của Huy Cận.

Cảm hứng thứ hai làm nên chất Huy Cận trong bài thơ này là cảm hứng về vũ trụ và con người. Như phần trên đã nói, thơ Huy Cận trước cách mạng được khơi nguồn từ cảm hứng vũ trụ. Lúc đó, vũ trụ lớn lao, vô biên đã đè bẹp con người khiến nó rợn ngợp, cô đơn, lẻ loi ngơ ngác:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái, nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Nắng xuống, trời lên sầu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Viết Đoàn thuyền đánh cá, nói tới biển, tới trời, Huy Cận có điều kiện khơi lại nguồn cảm hứng về vũ trụ và con người. Ngày nay biển cả, vũ trụ bao la trở nên thân thiết với con người. Ngược lại ngư dân trở thành người chủ của biển khơi, bạn của trăng sao.

Cảm hứng lãng mạn cách mạng hòa quyện, đan cài với cảm hứng về vũ trụ và con người đã tạo cho bài thơ nhiều hình ảnh bất ngờ, đặc biệt là ở khổ đầu và khổ cuối. Ở khổ thơ đầu, không gian khoáng đạt (mặt trời, biển), cảnh vật bao la, hùng vĩ gợi lên sự vô cùng, vô tận của trời biển:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa

nhưng đoàn thuyền đánh cá ra đi trong cảnh ấy lại tràn đầy tiếng hát. Xuân Diệu đã rất tinh khi phát hiện "bài thơ lặp đi lặp lại năm lần chữ "hát" thực chất là một bài ca sảng khoái, phối hợp nhạc điệu với những động tác dồn dập". Không khí làm ăn nhộn nhịp, ấm cúng tạo nên quan hệ đầm ấm, hài hòa giữa con người và vũ trụ.

Khổ thơ cuối cùng tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong nắng mai. Nhiều hình ảnh trong khổ thơ vừa có sự lặp lại vừa có sự phát triển, vừa diễn tả biển cả, vũ trụ rộng ớn, vừa diễn tả tư thế lạc quan, làm chủ của ngư dân. Trước tiên là hình ảnh mặt trời. Ở trên là:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Ở đây là:

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Sau đó là hình ảnh đoàn thuyền và tiếng hát. Ở trên là:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đây là:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Một bên là ngày tàn và cảnh ra đi, một bên là ban mai và cảnh trở về. Ra đi nhẹ nhàng phơi phới. Trở về hăm hở, say sưa và sảng khoái vì thành quả tốt đẹp của một đêm làm việc cật lực. Song dù ra đi hay trở về, con người và biển cả hòa làm một trong sự tin tưởng và yêu thương.

Hình ảnh cuối cùng khép lại bài thơ nhưng lại mở ra trong tâm trí người đọc cả một trường liên tưởng mới mẻ:

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Bài Đoàn thuyền đánh cá bộc lộ những đặc sắc trong phong cách thơ Huy Cận cùng sự đổi mới của phong cách ấy trên con đường hòa nhập cái tôi riêng lẻ của nhà thơ với cái ta chung của đất nước. Lấp lánh mãi trong tâm trí người đọc nhiều hình ảnh độc đáo khiến người đọc khó quên chúng và khó quên cả bài thơ.

 

BÀI LÀM 3

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, lịch sử sang trang, cả miền Bắc sang giai đoạn cách mạng mới - xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thơ ca cũng chuyển mình cùng với lịch sử dân tộc. Nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh đã thành công. Một trong số đó có bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy cận. Bài thơ vừa mang nét đặc trưng của thơ Huy Cận vừa đánh dấu sự chuyển mình trong cảm hứng sáng tác của ông. Bài thơ là một khúc ca phơi phới, say sưa của những con người lao động mới.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ra đời vào năm 1958 với bút pháp nghệ thuật sáng tạo điển hình, cảm hứng lãng mạn, bay bổng, bài thơ đã dựng lại không khí lao động khẩn trương, tươi vui, khỏe khoắn của những người dân lao động vùng biển Quảng Ninh làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và dự báo tương lai huy hoàng tốt đẹp trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc những năm 58-60 của thế kỉ XX.

Bài thơ là một hành trình khép kín của một chuyến ra khơi đánh cá và trở về. Hình ảnh thơ kì vĩ, lớn lao, nhịp điệu khỏe khoắn, vươn dài, giọng thơ lãng mạn, tự tin, say sưa, thể hiện được tâm hồn tình cảm của con người lao động xã hội chủ nghĩa mới.

Bằng bút pháp ẩn dụ, gợi tả, tác giả đã cho ta thấy hình ảnh xuyên suốt bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi với không khí lao động tập thể hăng say. Tinh thần lao động tự giác tích cực của những con người lao động mới. Đoàn thuyền ra khơi trong một hoàn cảnh đặc biệt:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Khi thời gian kết thúc một ngày, không gian đang chan hòa những ánh hoàng hôn rực rỡ và những tia sáng mặt trời cuối cùng giao hòa giữa bóng tối và ánh sáng.

Dưới bút pháp nhân hóa, so sánh điển hình, Huy Cận đã cho ta thấy vũ trụ như một ngôi nhà khổng lồ đang rực rỡ trong ánh hoàng hôn, không gian rộng lớn nhưng ấm áp, hùng vĩ. ở vào thời điểm ấy:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Như một sự tiếp nối, điệp khúc của người lao động, không nghỉ ngơi, không mệt mỏi. Trong câu thơ ta còn thấy được cả một hành trình lao động muôn thuở của con người lao động. Những ngày này, đoàn thuyền ra khơi trong một không khí mới lạ, hào hứng say sưa hơn:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Đây là sự chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác, từ cái vô hình sang cái hữu hình. Cánh buồm là hình tượng hóa cụ thể của người dân làng chài là tất cả tâm linh và cuộc sống của họ như gửi gắm vào cánh buồm. Tiếng hát còn là hiện thân của cảm xúc say sưa, thách thức với biển cả, tiếng hát với niềm tin và hi vọng.

Cảnh đoàn thuyền đi đánh cá tiêu biểu được Huy Cận phác họa trong một tư thế chủ động, khoẻ khoắn, hùng dũng:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những động từ mạnh miêu tả liên tiếp: lái, lướt, đậu, dò, dàn đan, vây giăng... cho ta thấy sự luân chuyển mau lẹ, nhịp nhàng, khẩn trương, dứt khoát. Con thuyền hoà lẫn vào thiên nhiên, mây nước của biển cả, làm chủ tầm cao, chiều rộng, chiều sâu trong tư thế chế ngự, tiến công và chiến thắng, chinh phục thiên nhiên, chỉ có những con người lao động làm chủ thiên nhiên và cuộc đời họ mới có được một tư thế lao động sẵn sàng và hết mình như thế.

Nếu ta đem hình ảnh con thuyền trong thơ xưa của cụ Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến hay ngay cả con thuyền trước cách mạng trong thơ Huy Cận thì hình ảnh con thuyền trong bài Đoàn thuyền đánh cá là cả một tập thể lớn lao, kì vĩ, khổng lồ, đoàn kết, mạnh mẽ, hòa nhập với thiên nhiên, vũ trụ.

Cùng với hình ảnh đoàn thuyền đánh cá là những con người lao động, những chủ thể của thiên nhiên cũng được miêu tả trong một tư thế, động tác khoan thai, thoải mái, linh hoạt, sáng tạo:

Ta bát hài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
....
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Huy Cận đã kết hợp giữa tả thực, tưởng tượng, liên tưởng với các yếu tố lãng mạn, bay bổng, gợi ra một không khí lao động say sưa, mặc dù công việc lao động ở đây hết sức vất vả, khó nhọc, nặng nề, nhưng những người lao động hiểu được ý nghĩa và công việc của mình. Do đó, họ dồn hết tâm lực, sức vóc, kéo lưới vào bờ trong một tư thế chủ động, hăng say.

Cùng với Tế Hanh là những bài thơ vốn thành công về đề tài người dân vùng biển, Huy Cận cũng đã tạc vào biển khơi một tượng đài của người lao động còn vang vọng mãi trong tâm trí người đọc.

Cảnh thu hoạch cá trên biển được Huy Cận đặc biệt chú ý trong việc chọn từ ngữ, sắc màu độc đáo, nhằm gây ấn tượng và chú ý tới những mẻ cá tươi ngon khi thuyền về cập bến:

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
...
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
...
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Hành trình lao động được khép lại bởi những sắc màu tươi sáng, lung linh, hấp dẫn của thành quả sau một ngày làm việc. Dưới ánh sáng mờ ảo của trăng sao, Huy Cận liên tưởng và cảm nhận những sắc màu này lộng lẫy như những bức sơn mài khảm trai đang cài vào nhịp sống và lao động khẩn trương của những người đánh cá.

Không chỉ có con người, đất trời và thiên nhiên giao hòa trong một niềm vui hạnh phúc mà còn có cả tiếng hát vang vọng suốt bài thơ đi suốt hành trình lao động. Điệp từ "hát" được lặp lại từ lúc ra khơi khi đánh cá và lúc trở về. Đây là tiếng hát át tiếng sóng, làm chủ cuộc đời, con người như bay bổng lên, lớn lao hơn, sánh vai cùng vũ trụ.

Thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đặc biệt là cảnh đánh cá trên biển được Huy Cận chú ý và tập trung vào những luồng sáng khác nhau. Đó là ánh sáng của mặt trời rực rỡ lúc ra đi, ánh sáng của trăng sao, đèn biển hòa nhập cùng sóng nước, làm hình ảnh trở nên trong trẻo, có sức sống tràn trề, tươi vui, kì diệu. Bài thơ vì thế mà lúc nào cũng ấm áp, hình ảnh thơ kì vĩ, trong sáng:

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về cũng bắt đầu từ một lời hát khi bình minh thức dậy, kết thúc một ngày lao động đầy ắp những thành quả bội thu:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mở đầu bài thơ bằng hình ảnh mặt trời xuống biển và kết thúc bài thơ bằng cảnh "mặt trời đội biển nhô màu mới"t đó là màu mới của sự nghiệp cách mạng, của một tương lai tươi sáng, đầy triển vọng và hứa hẹn một cuộc sống mới, xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc.

Câu hát lao động của người dân vùng biển, tiềm tàng một sức sống mới. Nếu lúc ra đi, họ hát cùng biển khơi, bắt đầu của sự thử thách thì lúc trở về họ đã hát với gió khơi như một sự hòa đồng, chinh phục và chiến thắng thiên nhiên,, sánh vai cùng với thiên nhiên.

Hình ảnh "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" gợi ra những nẻo đường tươi đẹp khác nhau của những con người lao động, gửi gắm một niềm tin, niềm tự hào về quê hương đất nước đang trên con đường cách mạng mà Đảng vạch ra cho nhân dân là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp trong những thập kỉ 60 của thế kỉ XX.

Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra một ngày mới huy hoàng, mở ra tương lai tươi đẹp cho mỗi con người, cho đất nước. Hình ảnh mặt trời và muôn ngàn mắt cá huy hoàng tỏa sáng tâm hồn nhà thơ, tỏa sáng lời thơ, và thổi vào lòng người niềm tin phơi phới về ngày mai tươi sáng khi mà họ được làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời và đất nước. Bài thơ đã thực sự thành công và để lại ấn tượng đẹp trong lòng người đọc về hình tượng con người mới xây dựng đất nước sau chiến tranh.

Các bài học liên quan

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật