Bài số 13: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cho thấy nỗi lòng cô đơn buồn nhớ và tâm trạng đau khổ sợ hãi của nàng Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng ở đây. Hãy làm rõ điều đó
Chặng dừng chân đầu tiên trên quãng đường mười lăm năm lưu lạc của người con gái tài sắc Thúy Kiều là thời gian ở lầu Ngưng Bích.
- Bài học cùng chủ đề:
- Bài số 12: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Bài số 7: Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
- Bài số 8: Vẻ đẹp của chị em Thủy Kiều (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
Chặng dừng chân đầu tiên trên quãng đường mười lăm năm lưu lạc của người con gái tài sắc Thúy Kiều là thời gian ở lầu Ngưng Bích. Sau khi phải bán mình chuộc cha và em, rơi vào tay Tú Bà, Mã Giám Sinh, bị làm nhục, Kiểu tự vẫn nhưng không thành, nàng được Tú Bà ngon ngọt dỗ dành:
"Người còn thì của hãy còn
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà".
Thực chất là mụ đem giam lỏng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu mới không kém phần độc ác, nham hiểm so với việc giả vờ làm mai mối cho nàng làm vợ lẽ Mã Giám Sinh.
Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.
Sáu câu đầu của đoạn thơ là một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có "non xa" và "tấm trăng gần"; cố "cát vàng cồn nọ" và "bụi hồng dặm kia". Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông không một bóng người, Kiều chỉ còn biết "bốn bề bát ngát xa trông". Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với "mây sớm đèn khuya", nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần - nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch:
Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.
Tám Câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều "tưởng người...". Với mẹ cha thì nàng đã "xót người...", mỗi đối tượng Kiều có mỗi nỗi thương nhớ riêng.
Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy, Kiều thương Kim Trọng cô đơn, đau khổ "Một trời thu để riêng ai một người". Đối với cha mẹ, Kiều khắc khoải "Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn". Lần này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự "dưới nguyệt chén đồng", thương người yêu đau khổ "rày trông mai chờ" và "bơ vơ" cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi, mới "phai" được nỗi nhớ thương ấy? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như: "dưới nguyệt chén đồng", "tin sương", "rày trông mai đợi", "bên trời góc bể", "tấm son gột rửa"... - đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Các động từ - vị ngữ: "tưởng", "trông", "chờ", "bơ vơ" ,"gột rửa", "phai" đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho một mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ!
Nhớ chàng Kim rồi Kiều đau xót nhớ thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: "hôm mai", "cách mấy nắng mưa", các thi liệu điển cố văn học Trung Hoa như "sân Lai", "gốc tử" và thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", đặc biệt là hình ảnh mẹ già "tựa cửa hôm mai" đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi "gốc tử đã vừa người ôm" .
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa "trâm gãy gương tan" nàng vẫn dành cho "người tình chung" bao tình thương nhớ "muôn vàn ái ân". Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đố giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ "buồn trông" xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ "buồn trông" là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng "tê tái" đau thương; thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duyên số... "Buồn trông" vì càng buồn thì càng trông, càng trông lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn trong". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bị thương:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. "Thuyền ai" lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa xa" đầy ám ảnh. "Buồn trông" con thuyền "ai" xa lạ, cánh buồm xa xa "thấp thoáng", Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách. Rồi nàng lại "buồn trông" về phía "ngọn nước mới sa", dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi "về đâu", đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu - Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là vê đâu?
Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai", về hoa trôi "biết là về đâu?", Kiều "buồn trông" về bốn phía "chân mây mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo "rầu rầu" của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
"Nội cỏ rầu rầu" tàn úa hiện lên giữa màu "xanh xanh" nhạt nhòa của "chân mây mặt đất" chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình, sắc cỏ "rầu rầu" ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:
Sè sè mặt đất bên đàng,
Dầu đâu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa "buồn trông" vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào, "gió cuốn" trên mặt duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm" của sóng, không phải sóng reo mà "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây "xung quanh ghế ngồi". Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái "nhỏ bé" đáng thương? Kiều "buồn trông" mà lo âu sợ hãi:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ rầu rầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh... mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa hao la mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng, lẻ loi.
Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có "ma đưa lối, quỷ dẫn đường"..., đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích như chứa đầy lệ, lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ cha mẹ, lo sợ cho thân phận, số phận mình; Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.
Các từ láy: bát ngát, bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm, kết hợp với điệp ngữ "buồn trông" đã tạo nên sắc điệu trữ tính thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo. Đó là giá trị văn chương đích thực trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta không chỉ cảm thương, đau đớn, lo lắng cùng Thúy Kiều trước phận gái nổi chìm-và tương lai mờ mịt. Ta còn hiểu hơn tấm lòng nhân đạo, trái tim đa cảm cùng "những câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình" mà có thể bắt gặp rất nhiều trong kiệt tác Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9