Bài số 9: Bức tranh xuân trong cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiểu - Nguyễn Du)
Mùa xuân - đề tài muôn thuở của thi ca. Ta bắt gặp mùa xuân trong thơ trung đại với hình ảnh "cỏ xanh như khói bến xuân tươi", tiếng “cuốc kêu xuân đã muộn” của Nguyễn Trãi.
- Bài học cùng chủ đề:
- Bài số 2: Suy nghĩ của em về nhân vật vợ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
- Bài số 3: Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
- Bài số 4: Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Trích Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ).
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
Mùa xuân - đề tài muôn thuở của thi ca. Ta bắt gặp mùa xuân trong thơ trung đại với hình ảnh "cỏ xanh như khói bến xuân tươi", tiếng “cuốc kêu xuân đã muộn” của Nguyễn Trãi. Trong thơ Trần Nhân Tông với “chim hót véo von liễu nở đầy”. Ta cũng không thể không nhớ đến mùa xuân với sắc cỏ xanh hoa lê trắng trong thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không dài nhưng đã đem đến cho người đọc những cảm nhận tinh tế và gieo vào lòng người cảm giác phơi phới, tràn trề nhựa sống của mùa xuân. Gợi nhiều hơn tả, đoạn thơ còn là một minh chứng cho việc sử dụng thi pháp đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam, đồng thời là một ví dụ tiêu biểu cho thành công của Truyện Kiều về phương diện nghệ thuật miêu tả.
Đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh (đầu tháng ba), chị em Kiều đi chơi xuân. Đây là đoạn thơ nằm liền ngay sau đoạn mở đầu giới thiệu gia cảnh họ Vương và tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Đoạn gồm mười tám câu thơ được kết cấu theo đúng trình tự thời gian của cuộc du xuân.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Luôn có khả năng nắm bắt cái hồn của cảnh vật để rồi sau đó chỉ bằng vài chi tiết đã làm cảnh vật được chạm khắc nổi bật với đúng cái “thần”, cái “hồn” của nó. Chẳng hạn cảnh mùa thu được ông miêu tả:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Với bốn câu thơ gợi tả khung cảnh ngày xuân, Nguyễn Du đã chạm khắc bức tranh toàn cảnh bằng không gian, thời gian và những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân tháng ba: đó là một không gian rộng lớn, chim én, cỏ xanh, hoa lê trắng… Ngay từ câu thơ mở đầu “Ngày xuân con én đưa thoi”, nghệ thuật miêu tả ước lệ đã được bộc lộ khá rõ. Trong một câu thơ tác giả vừa tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân “chim én” vừa nói về thời gian thấm thoắt trôi nhanh như thoi dệt cửi, câu thơ còn như ngụ cả ý tiếc ngày xuân đi quá nhanh. Như vậy cái ước lệ đâu chỉ có ở hình ảnh chim én nói về mùa xuân mà còn có cả cái thấm thoắt thoi đưa để chỉ sự chuyển biến mau lẹ của thời gian, cái tiếc nuối của con người cũng được gửi cả vào trong ấy. Câu thơ tiếp theo là một cách tính thời gian cụ thể “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, có chín chục ngày xuân mà đã đi qua hơn sáu mươi ngày, để rồi:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một câu thơ tuyệt hay và bức tranh tuyệt đẹp. Trong đó tác giả đã sử dụng thủ pháp miêu tả từ toàn cảnh đến cận cảnh, thi pháp đối lập màu sắc làm chủ đạo. Trước hết là bức tranh không gian rộng lớn như mở ra đến vô cùng vô tận.
Cỏ non xanh tận chân trời
Quả là một hình ảnh đầy sức sống có sức gợi tả đặc biệt là cái phông, cái nền cho câu thơ tiếp theo xuất hiện: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Chữ “trắng” đối rất chuẩn với chữ “xanh” trong câu trên. Một vài bông hoa lê trở thành thứ trang sức quý giá để tô điểm cho vẻ đẹp của mùa xuân. Chữ “điểm” làm cho mùa xuân càng như có tâm hồn.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du chọn cảnh ngày xuân để nói về quãng thời gian êm đềm, ngắn ngủi của cuộc đời Thúy Kiều. Bởi trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa xuân vẫn là mùa có sức quyến rũ lòng người nhất. Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tiết trời trong trẻo, mát mẻ... đó còn là mùa diễn ra nhiều lễ hội nhất trong năm và trong những lẽ hội ấy, con người là tâm điểm của bức tranh xuân.
Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lẻ hội trong tiết Thanh minh:
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Như vậy có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi viếng mộ và đi chơi xuân ở chốn đồng quê.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Nghệ thuật miêu tả ước lệ lại một lần nữa thể hiện rõ nét trong đoạn thơ này. Không khí ngày lễ hội được ví với hàng loạt hình ảnh tượng trưng như: chim yến, chim hoàng anh, như nước, như nêm (chật cứng như nêm). Để tái hiện được không khí náo nức của lễ hội, Nguyên Du đã sử dụng một loạt từ ghép là tính từ, danh từ, động từ xuất hiện với tần số dày đặc. Các danh từ ghép (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân...) gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến lễ hội; các động từ ghép (sắm sửa, dập dìu...) gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt; các tính từ ghép (gần xa, nô nức...) diễn tả tâm trạng háo hức của người đi chơi lễ hội. Hình ảnh ẩn dụ “gần xa nô nức yến anh” gợi lên cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim hoàng anh đang ríu rít... Từ láy “dập dìu” thật gợi hình, gợi cảm, vừa tả được cảnh từng đôi lứa “tài tử - giai nhân” đang du xuân vừa diễn tả được cái nhịp điệu trữ tình thơ mộng trong từng bước chân, từng đoàn xe đang đi trên đường.
Tà tà bống ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về được bắt đầu bằng một câu thơ tả sự chuyển đổi của thời gian “Tà tà bóng ngả về tây”. Buổi chiều tà thường gợi về cái gì đó thật buồn, bởi nó báo hiệu một ngày đã tàn. Đang vui vẻ, nô nức là thế, bây giờ đã kết thúc sao tránh khỏi tâm trạng “thơ thẩn” đầy tiếc nuối. Vẫn biết vậy sao ta cứ ám ảnh mãi bởi hình ảnh ba chị em Kiều đang thơ thẩn ra về. Cảnh mùa xuân ở những câu cuối được cảm nhận qua tâm trạng những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ diễn tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt câu thơ “nao nao dòng nước uốn quanh” như nhuốm màu tâm trạng. Nó vừa như vẫn còn đọng cái cảm giác bâng khuâng xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về những tháng ngày không còn hồn nhiên vô tư nữa của Thúy Kiều vì ngay sau đoạn này là đoạn Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên.
Người và cảnh - ý và tình hòa hợp đến độ không còn ranh giới trong những câu thơ tả mùa xuân của Nguyễn Du. Điều đó tạo nên sự thành công và sức hấp dẫn cho đoạn thơ đồng thời cho cả tác phẩm Truyện Kiều. Cùng với bức họa ba mùa hạ, thu, đông, cảnh mùa xuân tạo nên bộ tứ bình bằng ngôn ngữ văn chương tuyệt vời nhất trong văn học trung đại và trong văn học dân tộc.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9