Bài số 20: Thuyền nan một chiếc ở đời. Cảm nhận về nhân vật ông ngư trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn - Nguyễn Đình Chiểu

Đọc Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu ta thấy ngay hình tượng trung tâm của tác phẩm là chàng trai văn võ song toàn Lục Vân Tiên - một con người lí tưởng cho quan niệm nhân nghĩa mà Nguyễn Đình Chiểu muốn truyền dạy qua tác phẩm của mình.

BÀI LÀM

Đọc Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu ta thấy ngay hình tượng trung tâm của tác phẩm là chàng trai văn võ song toàn Lục Vân Tiên - một con người lí tưởng cho quan niệm nhân nghĩa mà Nguyễn Đình Chiểu muốn truyền dạy qua tác phẩm của mình. Nếu ở đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp nổi bật hình tượng người anh hùng xả thân làm việc nghĩa khiến người đọc khâm phục thì đến đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn ta lại bắt gặp một Lục Vân Tiên trong con người ông Ngữ.

Ở đoạn truyện này hình tượng Lục Vân Tiên cò mờ đi chút ít, trái lại hai nhân vật phụ: Trịnh Hâm - tượng trưng cho kẻ ác, và ngư ông - tiêu biểu cho người thiện - đậm nét hơn. Tại đây, cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không sôi động như đoạn Vân Tiên đánh cướp. Nó nhẹ nhàng mà thấm thìa, đẹp như trong truyện cổ tích, trong những giấc mơ. Vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng đó tỏa ra từ nhân vật ngư ông. "Thuyền nan một chiếc à đời"... Cả gia đình, cuộc sống, việc làm, những nỗi niềm buồn vui, tâm sự của người bình dân ấy thu lại trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé, đơn sơ mà sao nhân cách con người, quan niệm về cuộc sống của ông rộng lớn, thanh cao đến thế!

Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông chài nhanh nhẹn "vớt ngay lên bờ", rồi:

Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày

Cả gia đình ông lão vây quanh nạn nhân, mỗi người một việc, gấp gáp, khẩn trương, hết mình vì sự sống của nạn nhân. Khung cảnh ấy mới cảm động làm sao! Việc làm ấy mới đẹp đẽ làm sao! Chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào, nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu. Đó là bản tính của những con người lương thiện, những người lao động bình thường. Vì vậy, khi Vân Tiên - người bị nạn - tỉnh dậy, xúc động kể mọi sự tình, tỏ lòng biết ơn, ngư ông đáp luôn:

“... lòng láo chẳng mơ
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?".

Lời ông lão dứt khoát, bộc trực, đúng cách nói của người lao động, đúng giọng điệu của vùng quê Nam Độ, nghe thấm thía tận cõi lòng. "Lòng lão chẳng mơ” là ông không ham muốn, ước mơ chút nào về tiền bạc, của cải. Ông chỉ "dốc lòng nhân nghĩa", thương người, cố hết sức mình cứu giúp con người, luôn tìm việc nghĩa, hướng về điều thiện, thật hào hiệp, vô tư. Thấy Vân Tiên sống lại, nghe chàng kể những nỗi khổ đau, ông lão vừa vui mừng, vừa thương xót. Do đó lời ông mới chân thành cảm động đến thế. Cứu được Lục Vân Tiên, ngư ông đã giành lại sự sống cho người lương thiện, đã làm được một việc nhân nghĩa. Việc làm ấy hoàn toàn trái ngược với việc làm và dã tâm của Trịnh Hâm. Hành động của ông tuy lặng lẽ, âm thầm, trên một chiếc thuyền nan mỏng mảnh, nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp cho điều thiện, người lương thiện chiến thắng cái ác. Đáng kính, đáng trọng xiết bao!

Đáng kính đáng trọng hơn nữa là, cũng vẫn trên chiếc thuyền nan ấy, ngư ông đã sống một cuộc sống, và nghĩ suy, quan niệm về cách sống thật đẹp đẽ. Chúng ta hãy xuống thuyền cùng Lục Vân Tiên chuyện trò, tâm sự với người dân bình thường làm nghề vạn chài, sông nước ấy. Ngỡ như không phải ông nói, mà đang ngân nga cất tiếng hát. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ, nghe như có tiếng phách tre, tiếng đàn kìm thong thả đệm theo. Hát rằng:

Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng...

Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước để "rửa ruột sạch trơn", nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh, ngư ông đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Tấm lòng ông trong sạch. Gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hòa nhập với biển trời, sông nước.Cặp từ "hứng gió", "chơi trăng" dựng một hình ảnh con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng, nhưng không mơ hồ, tùy tiện. Trái lại ông rất chủ động, ung dung:

Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo; mệt quăng câu dầm.

Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những nhát chèo khỏa nước, nhặt khoan, khi mạnh mẽ, khi nhẹ nhàng. Lúc khỏe thì quăng chài, kéo lưới, mệt mỏi thì túc tắc buông câu. Thật là một tấm gương lao động cần cù, chăm chỉ, luôn luôn làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống. Sống trong sạch, phóng khoáng, làm chủ trong mọi việc, tha hồ hưởng gió mát, trăng thanh, bồng bềnh trên sông nước. Cuộc sống ấy hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao! Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông chài nói đến chữ "vui": "vui vầy", "vui thầm" rồi "vui say". Lúc nào cũng vui, mỗi lúc một vui. Đi dây đó, ra khơi vào vịnh, gặp bạn bè thì "vui vầy"; giữa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn "vui thầm". Ý thức sâu sắc về lẽ sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này, để "vui say", sống lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ngư ông càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ đã cất cánh. Ngư ông hóa thành tiên ông thành nghệ sĩ, nghệ sĩ dân gian của đất chúi rồng, nhiều sông nước:

Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế, vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.

Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa dòng sông rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ngư ông gắn liền với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chải tóc, vuốt râu. Hình ảnh chiếc thuyền nan, cũng như hình tượng nhân vật ông Chài, đến đây, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn, cảm hứng của nhân vật, cũng là sự hứng khởi của tâm hồn nhà thơ. Dường như nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống rất đáng trân trọng của những con người nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, vui say hòa hợp với đất tròi. Càng về cuối, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như như trăng hòa nước, như nước được mái chèo khua đọng rung rinh.

Đọc truyện Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật cao niên. Đó là những ông quan, ông tiều, ông ngư - những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất người lao động, chân dung cụ thể của đạo lí truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhân vật - nhất là nhân vật tích cực - bao giờ cũng là những mảnh tâm hồn của tác giả. Tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu chan chứa tình cảm nhân nghĩa. Ngư ông - nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn của nhà thơ?

Thuyền nan một chiếc ở đời...

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu cũng mỏng manh, trôi nổi như chiếc thuyền của ngư ông. Sống cuộc đời ấy không phút nào ngơi nghỉ truyền bá đạo lí làm người, đấu tranh chống xâm lược. "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Trong bài Than dạo ông đã viết như vậy. Truyện Lục Vân Tiên, phải chăng là chuyện mở đầu trên con thuyền chở đạo cần cù, kì diệu ấy. "Trên đời có những vì sao có ánh sáng khác thường, con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu là như vậy" (Phạm Văn Đồng).

Các bài học liên quan
Bài số 14: Cảm nhận về sáu câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du).

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật