HAI CÂY PHONG (trích Người thầy đầu tiên) - Ai-ma-tốp

Đoạn văn trích Hai cây phong là trang văn hay, đầy ấn tượng, lồng vào tình cảm đó là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ về lòng biết ơn người thầy đầu tiên, đã làm nên chất thơ của truyện, nó thể hiện rất sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu cây cỏ, cảnh sắc thiên nhiên...

I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG

Đoạn văn trích Hai cây phong là trang văn hay, đầy ấn tượng, lồng vào tình cảm đó là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ về lòng biết ơn người thầy đầu tiên, đã làm nên chất thơ của truyện, nó thể hiện rất sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu cây cỏ, cảnh sắc thiên nhiên...

Nhân vật họa sĩ đã chắt lọc từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, nên ý văn rất trung thực, trong sáng, thể hiện một cách đằm thắm thiết tha tình yêu quê hương và biểu lộ lòng biết ơn người thầy đầu tiên đã trồng cây và trồng người nơi thảo nguyên hoang vu mênh mông.

Đoạn trích Hai cây phong như một bức tranh ngôn từ, hai cây phong còn được tả bằng trí tưởng tượng và bằng tâm hồn người nghệ sĩ nên nó rất sống động như hai con người và không chỉ thông qua quan sát của người họa sĩ và cái nhìn, cái cảm nhận của đứa con quê hương, vì hai cây phong được nhân cách hóa cao độ nên hết sức sinh động.

II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)

Câu 1. Căn cứ vào đại từ nhân xưng (tỏi, chúng tôi) của người kể chuyện, xác định hai mạch kể phân biệt lồng vào nhau trong Hai cây phong. Vị trí của nhân vật người kể chuyện. Lí do có thể nói mạch kể của người kể chuyện xưng “tôi” quan trọng hơn.

- Căn cứ vào đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi) của người kể chuyện, ta thấy có hai mạch kể phân biệt lồng vào nhau.

+ Trong mạch kể xưng “tôi” là người kể chuyện, người ấy tự giới thiệu là họa sĩ. Chúng ta có thể nghĩ rằng người kể chuyện ở Mỹ chính là nhà văn Ai-ma-tốp. Tuy nhiên, không phải nhất thiết bao giờ người kể chuyện cũng là tác giả.

+ Trong mạch kể xưng “chúng tôi” vẫn là người kể chuyện trên, nhưng lại nhân danh là “cả bọn con trai” ngày trước, và hồi ấy người kể chuyện cũng là một đứa trẻ trong bọn con trai.

- Như vậy, văn bản Hai cây phong có hai mạch kể, lồng vào nhau bao trùm lên nhau. Tuy nhiên “tôi” có ở cả hai mạch kể. Từ đó rút ra người kể chuyện xưng “tôi” trong văn bản là quan trọng hơn.

Câu 2. Trong mạch kể của người kể chuyện xưng “chúng tôi”, điều thu hút người kể chuyện cùng bọn trẻ và làm cho chúng ngây ngất. Lí do có thể nói người kể chuyện đã miêu tả hai cây phong và quang cảnh nơi đây bằng ngòi bút đậm chất hội họa.

- Trong mạch kể của người kể chuyện xưng “chúng tôi” có hai đoạn:

+ Đoạn trên nói đến hai cây phong trên đồi cao, vào năm học cuối cùng bọn trẻ chạy ào lên phá tổ chim, trong dịp nghỉ hè.

+ Đoạn dưới nói đến “thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng” mở ra trước mắt bọn trẻ khi ngồi trên cành cao.

- Như vậy, tuy cây phong để lại cho người kể chuyện ấn tượng khó quên của thời thơ ấu, nhưng đoạn sau mới thực sự làm cho người kể và bọn trẻ ngây ngất.

Câu 3. Trong mạch kể của người kể chuyện xưng “tôi” hai cây phong chiếm một vị trí “độc tôn” lôi cuốn và gây xúc động sâu sắc cho mạch kể.

Trong mạch kể xen lẫn này, hai cây phong là phác thảo của một họa sĩ với các "mắt mấu", “các cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay” với “bóng râm mát rượi”...

Ngòi bút của người họa sĩ ở đoạn sau miêu tả bức tranh thiên nhiên như biểu hiện trước mắt một “chân trời xa thẳm”, “thảo nguyên hoang vu”, “dòng sông lấp lánh như những sợi chỉ bạc”, càng làm tăng thêm chất quyến rũ của mảnh đất.

Trong bức tranh ngôn từ này, hai cây phong còn được tả bằng trí tưởng tượng và bằng tâm hồn người nghệ sĩ nên nó rất sống động như hai con người và không chỉ thông qua quan sát của người họa sĩ và cái nhìn, cái cảm nhận của đứa con quê hương, vì hai cây phong được nhân cách hóa cao độ nên hết sức sinh động.

Câu 4. Các em chọn mười dòng liên quan đến hai cây phong để học thuộc lòng.

Gợi ý: Các đoạn có thể chọn:

a. “Phía trên làng tôi... cây phong thân thuộc ấy”.

b. “Trong làng tôi... ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.

III. BÀI VĂN THAM KHẢO

Hình ảnh người thầy trong truyện Người thầy đầu tiên của Ai-ma-tôp.

Bài làm

Ai đã từng một lần “rụt rè núp dưới nón mẹ trong lần đầu tiên đi đến trường với lòng tưng bừng rộn rã giữa một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh"? Tuổi bé thơ đã đi qua mấy năm rồi, nhưng đâu dễ quên? Và những ai đó lần đầu tiên được đi học “Bình dân học vụ" sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, hạnh phúc biết bao được "sáng mắt sáng lòng!” Có thể nói, phần đông trong chúng ta, ai cũng lưu giữ trong tâm hồn mình hình ảnh tuyệt đẹp về một người thầy mà không bao giờ có thể phai mờ được.

“Các em cứ gọi ta là thầy, các em có muốn xem trường không? Vào đây, các em đừng ngại gì cả...?.

Đó là tiếng nói của thầy Đuy-sen, một Đoàn viên Thanh niên Cộng sản, với trái tim yêu thương mênh mông, với nhiệt tình say mê đã đem ánh sáng Cách mạng tháng Mười Nga đến với tuổi thơ miền núi hẻo lánh xa xôi.

Thầy Đuy-sen và cô học trò người dân tộc An-tư-nai bé bỏng, tội nghiệp hiện lên trên trang văn trong sáng, nhẹ nhàng của Ai-ma-tốp đã để lại bao rung động bồi hồi trong lòng ta một thời cắp sách.

Người thầy đầu tiên là một truyện ngắn xuất sắc của Ai-ma-tốp kể về thầy giáo Đuy-sen qua hồi ức bà viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-na, vốn là học trò trước đây của thầy Đuy-sen.

Hình ảnh một người thầy tuyệt đẹp và đáng kính là cảm nhận sâu sắc nhất của mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn này. Khi đến vùng núi quê hương của cô bé An-tư-nái. Thầy Đuy-sen còn trẻ lắm. Học vấn của thầy lúc đó chưa cao, nhưng trái tim thầy dạt dào tình nhân ái và sôi sục nhiệt tình cách mạng. Một mình thầy lao động hằng tháng trời, phạt cỏ, trát lại vách, sửa cánh cửa, quét dọn cái sân..., biến cái chuồng ngựa của phú nông hoang phế đá lâu ngày thành một cái trường khiêm tốn nằm bên hẻm núi, cạnh con đường vào cái làng nhỏ của người Kir-ghi-di, vùng Trung Á nghèo nàn lạc hậu.

Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đây cũng hay” thì thấy thầy từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy Đuy-sen mỉm cười, niềm nở” quệt mồ hôi trên mặt, rồi ôn tồn hỏi: “Đi đâu về thế, các em gái”. Trước các “vị khách” nhỏ tuổi, thầy hiền hậu nói: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi...?

Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại, cử chỉ của thầy rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, đã thấy rõ cái khao khát muốn được học hành của các em: “các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Thầy “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông… thầy báo tin vui trường học đã làm xong “có thể bắt đầu học được rồi”. Thầy mời chào hay khích lệ? Thầy nói với các em nhỏ người dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tất cả tình thương mênh mông: "Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”.

Thầy Đuy-sen quả là có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Chỉ sau một, vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng, thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi dậy trong lòng các em nhỏ người miền núi niềm khao khát được đi học.

Với An-tư-nai, thầy nhìn thấu tâm can em, cảm thông cảnh ngộ mồ côi của em, thầy an ủi và khen em một cách chân tình: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Câu nói ấy cùng với nụ cười hiền hậu của Đuy-sen đã khiến cho cô gái dân tộc thiểu số bé nhỏ, bất hạnh “thấy lòng ấm hẳn lại”.

Trước khi thầy đi lấy rạ khô, lúc tiễn các em nhỏ ra về, thầy nhẹ nhàng uốn nắn, thầy mời mọc ân cần. Các em nhỏ ra về mà cảm thấy yêu mến thầy, gắn bó với thầy và ngôi trường nhỏ của làng quê thân yêu. Hơn 30 năm sau, An-tư-nai đã thành đạt mà tâm hồn cô vẫn còn nghe tiếng nói nhỏ nhẹ của Đuy-sen: “Các em cứ gọi ta là thầy. Các em có muốn xem trường không? Vào đây, các em đừng ngại gì cả?”.

Đuy-sen là người thầy đầu tiên, người thầy khai tâm khai sáng cho An-tư-nai. Thầy hiền hậu, thầy yêu thương tuổi thơ. Thầy đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng và khát vọng đi học. Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ. Con đường tuổi trẻ là con đường học hành. Trên con đường đầy nắng đẹp ấy, anh chị vì mỗi chúng ta sẽ được dìu dắt qua nhiều thầy, cô giáo. Cũng như An-tư-nai, trong tâm hồn mỗi chúng ta luôn luôn chói ngời những người thầy, những Đuy-sen cao đẹp.

An-tư-nai - cô học trò bé nhỏ đáng thương và đáng yêu vô cùng. Mồ côi mẹ, ở với chú thím, cô phải làm quần quật suốt ngày. Ăn mặc tồi tàn, rách rưới “gấu váy thủng hở một mảng đầu gối”. Điều đau khổ, bất hạnh nhất trong cuộc đời ấu thơ của em là thiếu tình thương. Mỗi bát cơm phải đổi nhiều nước mắt, luôn luôn bị người thím độc ác, tàn nhẫn đánh chửi. Chỉ một bao “ki-giắc” (phân gia súc khô) mà em bị mụ ta “đánh vào đầu”. Mụ đay nghiến, chửi rủa: “Quân không cha không mẹ! Chó sói có bao giờ lại thành chó nhà được!... Muốn xem trường thì rồi tao sẽ cho xem, mày cứ còn bén mảng đến gần đây là tao đánh què cẳng đi. Tao sẽ làm cho mày nhớ đời cái trường ấy...”. Nếu thầy Đuy-sen đã khơi dậy trong lòng An-tư-nai tình yêu thương, lòng khao khát học tập thì mụ thím tồi tệ làm em đau khổ, tan nát cả lòng, chìm đắm trong lo âu, ngồi thui thủi một mình trong xó bếp "lặng lẽ khóc vụng". Em "không khóc vì những đòn thím đánh" vì em đã quen rồi, mà em chỉ khóc vì “hiểu rằng thím tôi không đời
nào chịu cho tôi đi học”. Qua đó ta càng thấy rõ: bị thất học là nỗi đau khổ, bất hạnh lớn nhất của tuổi thơ!

Ra khỏi trường, An-tư-nai vòng quay lại một mình, em đổ bao ki-giắc của mình vào kho đựng chất đốt. Trời đã chiều, em vội vã quay lại "cắm đầu chạy men theo các khe rãnh, các hẻm đá ở chân núi nhặt ki giắc”. Mấy chục năm sau khi trở thành viện sĩ, An-tư-nai “vẫn không hiểu hôm ấy cái gì xui khiến tôi dám làm một việc như thế”. Từng nếm trải nhiều đau khổ tủi nhục, bị mắng chửi, bị tạt tai, mọi ước nguyện mọi ý muốn của tuổi xuân “bị chôn vùi”, nên cô bé An-tư-nai “muốn làm một việc gì để cám ơn con người thật ra không quen biết ấy, để đền đáp lại nụ cười đã sưởi ấm lòng tôi, đền đáp lòng tin cậy, đền đáp mấy câu nói nhân từ ấy”.

Với tâm hồn trong sáng của tuổi thơ, An-tư-nai vừa nhặt ki-giắc vừa thấy trái tim mình “sung sướng đập rộn rã”. Mặt trời đã gác núi, mặt trời như chia vui, như đồng cảm san sẻ với em: “Và mặt trời cũng biết rõ vì đâu tôi sung sướng đến thể!”. Cô bé cảm thấy tự hào vì “đã làm được một việc nhỏ hữu ích”.

Con người nhỏ bé An-tư-nai như đã có một bước nhảy vọt về mặt tính cách. Từ chỗ em muốn đền ơn con người xa lạ đã săn sóc, quý mến mình đến chỗ tự giác thấy mình phải làm được một việc nhỏ hữu ích. Ai-ma-tốp đã lấy hình tượng “mặt trời” để miêu tả những rung động, những biến thái trong tâm hồn cô gái nhỏ bé người dân tộc Kir-ghi-di. Hình tượng “mặt trời” ở đây còn mang ý nghĩa như một biểu tượng nhằm ca ngợi ánh sáng Cách mạng tháng Mười đã chiếu rọi tỏa sáng vùng núi rừng lạc hậu Cư-rơ-gư-xtan, đem đến sự thức tỉnh và đổi đời trong lòng nhân dân các dân tộc mà An-tư-nai là một điển hình cảm động.

Đây là đoạn văn hay nhất, cảm động nhất. Mặt trời được nhân hóa, mặt trời là biểu tượng. Chất thơ, chất trữ tình không chỉ ở ngôn ngữ mà nó còn thấm sâu vào hồn người! Thiên nhiên như đang chia sẻ niềm vui với con người: “Mặt trời đã xế bóng ngang các sườn đồi, nhưng tôi cảm thấy hình như còn chần chừ không muốn lặn, còn muốn nhìn tôi. Ánh mặt trời tô điểm con đường tôi đi: mặt đất rắn mùa thu trải ra dưới chân tôi nhuộm thành màu đỏ, màu hồng, màu tím. Từng cụm bông lau khô vun vút bay hai bên như những tia lửa lập lòe. Mặt trời dọi lửa lên những chiếc cúc mạ bạc trên tấm áo đầy mụn vá tôi mặc”.

Tình thương của người thầy, mái trường vẫy gọi ánh sáng cách mạng đã lay tỉnh mọi cuộc đời, từ bóng tối vươn ra ánh sáng. Như con chim sổ lồng cất tiếng hót, An-tư-nai cũng vậy, cô vừa chạy vừa reo với đất trời, với gió mây: “Hãy nhìn tôi đây! Hãy nhìn tôi đang kiêu hãnh chừng nào! Tôi sẽ học hành, tôi sẽ đến trường và sẽ dẫn cả các bạn khác đến!".

An-tư-nai như được truyền thêm sức mạnh để vượt qua thử thách, để đến với mái trường tuổi thơ cùng các bạn. Con đường đến với mái trường, con đường đi học của An-tư-nai cũng là con đường đi tới ánh sáng cách mạng và hạnh phúc.

Ai-ma-tôp đã viết nên một truyện ngắn dưới dạng hồi ức chân thực, cảm động. Hình ảnh Đuy-sen - người thầy đầu tiên và hình ảnh An-tư-nai, cô bé mồ côi khát khao được đi học, được tác giả nói đến với tất cả sự ca ngợi, với niềm thương mến bao la. Người thầy trong truyện ngắn là người thầy của tình thương đến với tuổi thơ, đem ánh sáng cách mạng làm thay đổi mọi cuộc đời. Ngọn lửa tình thương như tỏa sáng trang văn Ai-ma-tốp, mãi mãi làm ấm áp lòng người. Thầy Đuy-sen càng trở nên gần gũi trong niềm thương mến của tuổi thơ chúng ta.

Các bài học liên quan
TÌNH THÁI TỪ
ĐÁNH NHAU VỚI CỐI XAY GIÓ (trích Đôn Ki-hô-tê) - Xéc-van-tét
MIÊU TẢ VÀ BIỂU CẢM TRONG VĂN TỰ SỰ
TRỢ TỪ, THÁN TỪ
CÔ BÉ BÁN DIÊM (trích) An-đéc-xen
LUYỆN TẬP TÓM TẮT VĂN BẢN TỰ SỰ

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 8 mới cập nhật