Đề bài: Nêu vắn tắt về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Xuân Diệu, Kể tên năm tác phẩm của nhà thơ ghi rõ năm xuất bản (hai tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám và ba tác phẩm sau Cách mạng tháng Tám)

Xuân Diệu (1916-1985) họ Ngô sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, ông là người đóng góp lớn cho lịch sử, văn học trên nhiều lĩnh vực.

BÀI LÀM

Xuân Diệu (1916-1985) họ Ngô sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, ông là người đóng góp lớn cho lịch sử, văn học trên nhiều lĩnh vực.

Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là ngọn cờ đầu trong phong trào Thơ mới lãng mạn và được xem là “nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh). Thơ Xuân Diệu thời kì này diễn tả một lòng ham mê cuộc sống đến cuồng nhiệt, một lòng khát khao giao cảm với đời. Trong lúc các thi sĩ lãng mạn cùng thời tìm các ngả đường khác nhau thì Xuân Diệu chủ trương đứng trên cõi trần này, bám chặt lấy từng giây phút hiện tại mà mình đang sống.

Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
           Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
          Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
       Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
                                                     (Thanh niên)

Xuân Diệu quan niệm hạnh phúc kết đọng đầy đủ nhất ở tuổi trẻ và tình yêu. Coi đây là phần “ngon” nhất trong cuộc đời, Xuân Diệu nhiệt thành say sưa kêu gọi mọi người tận hưởng.

Xuân Diệu được xem là nhà thơ của Xuân và Tình. Ông đã đưa ra một quan niệm rất mới mẻ hiện đại về tình yêu, đó là sự giao cảm tuyệt đối về tinh thần lẫn thân thể (phải gắn với hưởng thụ đã đầy, vô biên, xa cách, phải nói giục giã). Từ niềm say sưa với tuổi trẻ và tình yêu, nhà thơ đã khẳng định một quan niệm thẩm mĩ độc đáo. Con người ở trong độ tuổi trẻ và tình yêu chính là vẻ đẹp tối cao trên thế giới này, diễn tả niềm khát khao vô biên tình yêu và tuổi trẻ. “Thơ Xuân Diệu mang theo một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Khi đắm say cùng tuổi trẻ, cuồng nhiệt với tình yêu, Xuân Diệu thường nhạy cảm trước sự thay đổi của thời gian, của thế giới quanh mình. Nhà thơ ấy luôn lo âu trước sự trôi chảy thấm thoát của thời gian bởi nó sẽ mang đi hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ, đời người. Một người đang khát khao giao cảm với đời lẽ tự nhiên sẽ nhạy cảm với nỗi cô đơn. Xuân Diệu hay diễn tả tinh tế nỗi cô đơn của cái tôi tiểu tư sản của cuộc đời lạnh lúc bấy giờ. Trong thơ ông có những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho cái tôi cô đơn như ngọn núi xa, đỉnh Hi Mã Lạp Sơn, chiếc đao, con nai bị buông lưới, kẻ đi đày, bông hoa trong rừng thẳm,...

Cùng với nhận xét nội dung cảm xúc mới mẻ, thơ Xuân Diệu có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ Xuân Diệu mới lạ độc đáo nhất khi sử dụng động từ. Hình ảnh thơ Xuân Diệu giàu sức gợi cảm gắn cùng các phương thức tu từ độc đáo, đặc sắc. Nhịp điệu thơ Xuân Diệu cũng thật phong phú, đa dạng như cảm xúc của hồn thơ, khi êm ái, khi dồn dập, gấp gáp.

Cách mạng Tháng Tám thành công cũng như bao văn nghệ sĩ cùng thế hệ Xuân Diệu hồ hởi chào đón chế độ mới. Ông nhanh chóng trở thành một thi sĩ của nền thơ cách mạng. Các trường ca Ngọn Quốc kì, Hội nghị non sông chứng tỏ sự hòa nhập kịp thời của hồn thơ Xuân Diệu vào sự nghiệp cách mạng sôi nổi trên đất nước. Từ đó về sau, Xuân Diệu tiếp tục viết nhiều, viết khỏe và có mặt trên nhiều đề tài của thơ ca. Ngoài thơ Xuân Diệu còn sáng tác văn xuôi. Trước Cách mạng tháng Tám, các tập Phấn thông vàng, Trường ca của ông giàu cảm xúc, hình ảnh nhịp điệu chẳng khác gì những bài thơ trữ tình. Sau đó Xuân Diệu tiếp tục viết nhiều hồi kí, bút kí. Xuân Diệu còn là một nhà nghiên cứu lý luận phê bình xuất sắc. Ông có rất nhiều bài viết trao đổi kinh nghiệm làm thơ, tổng kết các phong trào thơ, giới thiệu các nhà thơ trẻ... Với lòng yêu mến các nhà thơ dân tộc. Xuân Diệu đã nghiên cứu công phu và có nhiều chuyên luận, bài luận xuất sắc. Ông từng viết kỹ lưỡng tinh tế về các nhà thơ Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, ... Xuân Diệu còn là một dịch giả nổi tiếng có công giới thiệu với bạn đọc Việt Nam những nhà thơ lớn của nhân loại. Cuộc đời sự nghiệp văn học của Xuân Diệu đã nêu một tấm gương về lòng say mê nghề nghiệp, về tinh thần lao động nghiêm túc cần cù, ông đã để lại trên 50 tác phẩm các loại. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông mất đi là một tổn thất không dễ gi bù đắp trong lịch sử văn học Việt Nam.

Năm tập thơ tiêu biểu trước và sau Cách mạng tháng Tám của Xuân Diệu:

                    - Thơ thơ (1938)
                    - Gửi hương cho gió (1945)
                    - Riêng chung (1960)
                    - Hai đợt sóng (1967)
                    - Hồn tôi đôi cánh (1976).

Các bài học liên quan
Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh trang 3 SGK Ngữ Văn 11
Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba - 1442 (Trang 14 SGK Văn 11)

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật