Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

Trong Truyện Kiều, có nhiều đoạn thơ hay miêu tả nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn nào thể hiện được trạng thái bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

BÀI LÀM

Trong Truyện Kiều, có nhiều đoạn thơ hay miêu tả nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn nào thể hiện được trạng thái bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Biết Kiều tính tình khẳng khái, cứng rắn, Tú Bà đã cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Trong thời gian này, sức khỏe của Kiều mới hồi phục trở lại, nhưng tình cảm lại hết sức cô đơn. Chết thì nàng đã không chết nữa, vì sợ bị lụy cho cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào, một thân một mình ở nơi hoàn toàn xa lạ, tứ cố vô thân? Đây là đoạn thơ hay nổi tiếng của Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đát đó của nàng Kiều.

Trước hết, Nguyễn Du miêu tả tình cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng cách vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt của Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai chữ “khóa xuân” rất đẹp nhưng nói lên thực chất Kiều bị giam lỏng. Câu “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” cũng rất đẹp, cực tả cảnh cô đơn của Kiều. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều như chỉ còn “ở chung” làm bạn với “vẻ non xa, tấm trăng gần” (gần trăng là vì lầu cao). Một cảm giác trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng tràn ngập câu thơ. Nhìn ra xung quanh chỉ thấy một không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia, tình không một bóng cây, bóng nhà, bóng người, về thời gian, sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi triền miên, thật là bẽ bàng - ngao ngán và vô vọng. Nhưng nàng buồn về cảnh một phần, một phần khác buồn hơn vì tình. Đó là hai nỗi buồn chia xé tâm hồn nàng.

Thứ hai, nhà thơ cực tả nỗi lòng nhớ nhung, thương xót đối với người thân. Người đầu tiên được nhớ tới trong những giờ phút cô quạnh ấy là Kim Trọng, người tình mà nàng đã nặng lòng thề hẹn:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người cùng uống rượu thần nguyện dưới trăng: “Đinh ninh hai miệng một lời song song”. Kiều thương nhất là việc Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn đang ngày đêm trông chờ nàng một cách uổng công.

Hết thương Kim Trọng, nàng lại thương mình:

Bên trời gốc bề bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?

“Tấm son” đây là tấm lòng thủy chung, son sắt của Thúy Kiều đối với Kim Trọng. Nói bao giờ mới quên được mối tình, có nghĩa là chẳng bao giờ quên được.

Kể đến là nhớ thương cha mẹ già:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

“Tựa cửa” là hình ảnh của ngóng trông. Nàng tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa ngóng trông nàng về. Và giờ đây ai là người “quạt nồng ấp lạnh” cho cha mẹ. Nàng cảm thấy thời gian xa nhà đã rất lâu: “Cách mấy nắng mưa”, và tưởng tượng thấy cha mẹ đã già (“có khi gốc tử đã vừa người ôm”).

Hiển nhiên là Kiều cũng nhớ hai em, song chàng Kim và cha mẹ vẫn là mối tình cảm tha thiết nhất, gắn bó nhất.

Cuối cùng, Kiều nhìn đến cảnh trông trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận. Đây là những câu thơ réo rắt bậc nhất về nỗi buồn luân lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng lắng sâu trong vô thức:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. “Buồn trông” là buồn mà nhìn xa, cũng như là buồn mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. Hình như nàng mong một cánh buồm, những cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa, không rõ, như là một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Nàng lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển (theo Lê Văn Hòe), ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu dạt, không biết về đâu. Kiều ngồi trên lầu cao làm sao thấy được cánh hoa trên dòng nước. Đây chỉ cảnh tưởng tượng về số phận mình. Nàng lại trông thấy đồng cỏ úa tàn, chân mây, mặt đất một màu mờ mịt xanh xanh, tưởng như mịt mùng, không có chân trời. Nàng lại “trông gió cuốn mặt duềnh”. “Duềnh” là chỗ biển ăn sâu vào đất liền, thành vùng (theo Thạch Giang). Gió cuốn mặt duềnh làm sao sóng vỗ rào rạt, ầm ầm... Tất nhiên, dù lầu Ngưng Bích đó rất gần bờ biển cũng không thể nghe được tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi được. Đây là hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm nàng xuống vực.

Tám câu thơ, câu nào cũng vừa thực vừa hư, vừa là thực cảnh, vừa là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh về sự vô vọng, sự đạt trôi, sự bế tắc và sự chao đảo, nghiêng đổ. Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều trở nên mong manh và yếu đuối nhất, là lúc mà nàng rất dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh sau này.

Trong đoạn thơ này, không gian bao la rợn ngợp, không một bóng người. Thời gian như dồn lại, không biết bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều lặp lại. Con người trở nên nhỏ bé, bất lực, trơ trọi. Nghệ thuật trùng điệp như kéo dài nỗi buồn vô vọng, vô tận của con người.

 

LUYỆN TẬP

1. Tóm tắt câu chuyên từ khi "Mã Giám Sinh mua Kiều đến lúc Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Hãy nêu đại ý của đoạn này.

2. Phân tích 6 dòng đầu để cho thấy tâm trạng Thúy Kiều:

Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng

3. Phân tích tâm sự của Thúy Kiều ở 8 dòng tiếp theo:
a) Bốn dòng nói nỗi nhớ Kim Trọng
b) Bốn dòng sau là nỗi nhớ cha mẹ
Tại sao lại không thay đổi thứ tự cho hợp với đạo hiếu của con.
Kiều phải bán mình, hy sinh mối tình đầu?

4. Hãy phân tích 8 dòng cuối để thấy những cảnh vật khác nhau biến thời gian khác nhau sẽ có những lý do buồn khác nhau.

5. Phân tích điệp ngữ “Buồn trông” ở đoạn thơ cuối.

6. Hai dòng thơ:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ấm ẩm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

không còn là nỗi buồn nữa mà là tâm trạng hoảng loạn, hốt hoảng.
Hãy so sánh với 3 lần "Buồn trông” trên kia để làm rõ điều đó.

7. Nếu có điều kiện, em hãy đọc Những nỗi lòng tê tái trong SGK NV tập một để so sánh. Tại sao ở đây Kiều lại nhớ đầu tiên là cha mẹ rồi mới tới nhớ người yêu?

8. Cảm nhận của em về thiên nhiên và tâm trạng con người qua văn bản "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).

9.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
                                                 (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Giải thích ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu thơ trên, từ đó phân tích tám câu thơ cuối cùng của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều, SGK Văn học 9, tập 1) để làm nổi bật bút pháp tả cảnh ngụ tình đã đạt đến thành công tuyệt vời của thiên tài Nguyễn Du.

10. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có hai câu thơ:

"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?".

Nêu cảm nhận của em trước vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều trong hai câu thơ trên bằng cách: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 - 12 câu theo phương pháp diễn dịch, trong đó có sử dụng một câu hỏi tu từ (chú ý: gạch chân
dưới câu hỏi tu từ mà em đã dùng).

Các bài học liên quan
So sánh hai câu thơ
Em hãy thuật lại (kể lại) chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 tết đến ngày mùng năm tháng giêng.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật