Giải câu 1. Qua các đoạn trích trong sách Văn học (tập một) và những hiểu biết của em về Truyện Kiều, hãy trình bày nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du

Xanh Bơ-vơ đã nói, đại ý: nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Sêc-xpia, nước Pháp - Mô-li-e và nước Đức - Gớt. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Đoạn trường tân thanh.

Câu 1. Qua các đoạn trích trong sách Văn học (tập một) và những hiểu biết của em về Truyện Kiều, hãy trình bày nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du.

Câu 2. Em hãy phân tích giá trị biểu cảm của những từ láy và nét độc đáo trong cách so sánh của nhà thơ Tố Hữu trong hai khổ thơ sau:

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng...

BÀI LÀM

Câu 1

Xanh Bơ-vơ đã nói, đại ý: nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Sêc-xpia, nước Pháp - Mô-li-e và nước Đức - Gớt. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Đoạn trường tân thanh. Đó là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam, nền văn học thế giới, làm nên giá trị bất hủ của tác phẩm này có nhiều nguyên nhân song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp của Nguyễn Du.

Trước hết nói về nghệ thuật miêu tả của cụ Tiên Điền vì ngoại hình một con người bao giờ cũng là cái đập vào mắt, đến với nhận thức chúng ta đầu tiên. Một điều rất dễ nhận thấy là sự khác biệt trong cách miêu tả nhân vật chính diện và nhân vật phản diện Nguyễn Du. Trong quan niệm của Tôi Như, một con người cũng như bao nho sĩ đương thời chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, các nhân vật mang trong mình đỉnh cao của chân, thiện, mỹ, đều được khắc họa bằng hàng loạt điển cố với bút pháp ước lệ. Với chị em Kiều là “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, Kim Trọng phải là:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Còn Từ Hải, người anh hùng cái thế? Ta lại bắt gặp “Râu hùm hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, những tiêu chuẩn, những kích thước điển hình của một trang hảo hán. Ngược lại, ở những nhân vật phản diện, bút pháp của Nguyễn Du lại rất thực thế, sinh động đến mức trần trụi. Mã Giám Sinh là con buôn và cũng là gã trai lơ, hắn cần vẻ ngoài chải chuốt, diêm dúa ư? Thì đây “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Còn Sở Khanh, kẻ “bạc tình nổi tiếng lầu xanh”, Nguyễn Du khoác cho nó cái “hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng” để đi quyến rũ những “cành phù dung”. Tuy khác nhau đó nhưng Nguyễn Du vẫn khắc họa rất điển hình, chọn lọc chi tiết đến mức gắt gao để làm nổi bật lên dáng vẻ của từng hạng người, Tú Bà, mụ “gái làng chơi đã về già hết duyên”, nghề nghiệp của mụ tạo cho mụ một cuộc sống lấy đêm làm ngày nó để lại, không sao xóa nổi nước da “nhờn nhợt” xanh bủng beo của mụ. Và Tú Bà, chủ nhà chưa quen “ăn gì” nếu không phải là những đồng tiền nhầy nhụa, ăn chén của chị em những đêm tiếp khách, ních chặt căng đến “đẫy đà làm sao”. Hoạn Bà là một tể tướng phu nhân được Nguyễn Du thắp sáp cho mụ, biến mụ thành một pho tượng bệ vệ, quăng bịch xuống cái “giường thất bảo”, giữa cái nhà “ban ngày sáp thắp” kia.

Đặc biệt, làm cho bạn đọc bao thế hệ không ngớt khâm phục là cái tài tả người mà dường như dự báo cho cả cuộc đời nhân vật ở Nguyễn Du. Khi tả Thúy Vân:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
...
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

và khi tả Thúy Kiều đẹp đến mức “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, Nguyễn Du đều có dụng ý cả. Trên thì “thua” “nhường”, sắc trung chỉ hiền, dưới lại “ghen”, “hờn”, sắc trung chi thành, tả sắc mà đến bậc thánh hiền thì quả là Nguyễn Du đã khổ tâm hun đúc, chọn chữ để tả ra cho rành. Ai đã nhận xét như vậy, quả là chí lý. Chẳng trách sau này, khi cảnh nhà nguy biến, trong khi Kiều “Dầu trong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn” bởi “mỗi mình”, “nỗi nhà” thì Vân vẫn ngon lành giấc xuân, trong khi Kiều lênh đênh trong bể đoạn trường thì Vân vẫn đề huề sống cùng Kim Trọng. Tả người mà đến mức đó hỏi ai hơn được Nguyễn Du?

“Văn” đong càng lắc càng đầy! Đi sang góc độ khắc họa tính cách nhân vật mới thấy hết “tay tiên” của Nguyễn Du “gió táp mưa sa” đến mức nào. Đi vào tính cách, vào nội tâm con người đâu phải là chuyện đơn giản nhưng Nguyễn Du đã vượt qua thử thách đó tưởng chừng rất nhẹ nhàng, đơn giản.

Tả tính cách mà giới thiệu thẳng như khi tả Hoạn Thư:

Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.

không nói làm gì, và nếu chỉ có thế thì Truyện Kiều cũng không còn sống được với chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy cùng khám phá cội nguồn làm cho văn Kiều còn dào dạt tuôn chảy đến muôn đời.

Trước hết mượn ngay bút pháp miêu tả. Nguyễn Du đã khắc họa rất thành công tính cách nhân vật. Nhà phê bình Xuân Diệu đã từng rất tâm đắc với chữ thốt" trong bức chân dung nàng Vân:

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Quả nếu thay “thốt” bằng “nói” thì thành ra Vân cười cười nói nói suốt ngày, còn đâu vẻ “đoan trang” nữa. Còn “thốt" là thỉnh thoảng mới nói, đúng lúc đó. Có thể mới thấy cái dụng công tột bực của cụ Tiên Điền. Còn Sở Khanh, đàn ông mà “hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng”. Mã Giám Sinh, đấng mày râu gì mà “mày râu nhẫn nhụi”. Theo cái nhẫn nhụi ấy, theo cái chải chuốt trơn tuột của lụa là mà cũng tuột luôn đi mất cái tính cách của “đấng trượng phu”, chỉ còn lại một gã lái buôn, một kẻ bạc tình.

Cũng chỉ cần vài hành động điển hình thôi, Nguyễn Du cũng đã giúp người đọc đi guốc vào tim gan nhân vật. Với hành động đầy mờ ám: “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”, có khó gì không đoán được tâm địa phản trắc đầy âm mưu đen tới của Sở Khanh. Còn Kiều, nếu có đi theo hắn cũng chỉ là “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trong cơn tuyệt vọng cùng cực của cô tiểu thư lá ngọc cành vàng thoắt bị xã hội vứt xuống bùn đen mà thôi. Rõ nhất là ở Từ Hải. Dường như sự xuất hiện của con người này luôn luôn đột ngột, bất ngờ:

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi

Sau này, trong lời kể của viên lại họ Đỗ về Từ Hải cho chàng Kim, ông cũng dùng từ “bỗng”. Từ Hải là thế đó! chàng đến, chàng đi đột ngột như cơn gió lốc, quét hết mọi dơ bẩn, đưa lại hạnh phúc cho con người. Chàng như ánh sao băng vụt lóe sáng, xé rách màn đêm trong “đêm trường dạ tối tăm trời đất”. “Bỗng đâu” hạnh phúc đến đột ngột, đầy ngỡ ngàng, ấm áp, hân hoan. “Bỗng đâu” văn Truyện Kiều bừng sáng sau bao nhiêu “cung gió thảm mưa sầu”.

Ngôn ngữ cũng được Nguyễn Du tận dụng tối đa để làm bật lên tính cách nhân vật. Chỉ đọc những dòng “ghi âm” lời Hoạn Thư:

Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.

cũng phải sởn gai ốc vì cái giọng đay nghiến như muốn gí đầu người ta xuống, róc thịt người ta ra của mụ. Và giọng lưỡi Tú Bà:

Màu hồ đã mất đi rồi
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma.

Những bài học vỡ lòng trong làng chơi mụ truyền cho Kiều đã khiến Xuân Diệu cảm thấy “mụ chỉ nói trong mấy phút mà bọt mép của mụ văng đến nghìn năm”. Có lẽ, đối với những con “sư tử Hà Đông” đó thì ngôn ngữ lại là cây bút rất tốt để vẽ lên tâm địa của chúng. Và Nguyễn Du đã rất thành công.

Một phương pháp điển hình trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, một bút pháp quen thuộc của các nhà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình. Kiều là nhân vật được khắc họa đạt nhất bằng bút pháp đó. Nàng là con gái, là phụ nữ, Không gì điển hình hơn khi đặt Kiều trong thế đối lập với lễ giáo phong kiến trước tình yêu chớm nở với Kim Trọng. Lễ giáo phong kiến nghiêm khắc và nghiệt ngã, “nam nữ thụ thụ bất thân”. Nhưng Kiều vẫn chủ động đến với Kim Trọng: “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, đêm về vẫn mơ tưởng:

Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?

Cách xử thế ấy đã làm bao nhà nho xưa chau mày, bặm môi, và ngay cả đến bây giờ cũng chưa hết khiến chúng ta bàng hoàng. Cũng phải đặt con người “hiếu trọng tình thâm” ấy giữa một bên là cha và em đang chịu cảnh “giường cao rút ngược dây oan” với một bên là mối tình đầu chớm nở mới thấy hết giá trị, sức nặng của câu nói đầy nước mắt: “Để cho để thiếp bán mình chuộc cha” của Kiều, mới thấy hết hiếu nghĩa ở người con. Đây cũng là con người sống có trước có sau. Làm sao quên được hình ảnh “Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi”? Khi có quyền hành trong tay, Kiều bỏ ra bao bạc vàng, lụa là đền ơn và kiên quyết tuyên án gia hình “những phường bạc ác tinh ma” đã đẩy nàng xuống bùn đen. Chưa bao giờ Kiều hiện lên sát đá, quyết đoán đến thế. Thật là con người tình, hiếu, nghĩa vẹn toàn! Đặc biệt, Từ Hải là anh hùng nhưng cũng là con người biết rung động trước cái đẹp, trước sự yếu đuối. Không gì hơn khi đặt chàng trong cuộc gặp gỡ với Kiều nơi lầu xanh chứ không phải trong cuộc chiến đấu nơi trận tiến để khắc họa tấm lòng cao quý của người anh hùng ấy. Đó là cái độc đáo, và cũng là sáng tạo rất thành công của Nguyễn Du.

Điều làm ta ngỡ ngàng nhất là “bút pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn”, theo cách gọi của Phan Ngọc, ở Nguyễn Du. Nhân vật của ông hiện lên rất người. Trong Truyện Kiều còn ai được ông yêu thương hơn Thúy Kiều và Từ Hải. Thế nhưng Nguyễn Du vẫn làm chủ được ngòi bút của mình. Cái gì phải đến nó sẽ đến. Con người bao giờ cũng là con người với tất cả mạnh, yếu của mình. Đến một lúc nào đó, nàng Kiều sau bao nhiêu “gió dập sóng va” sẽ phải mệt mỏi, hãi hùng, phải “xiêu” trước “lễ nhiều nói ngọt”, trước bả vinh hoa mà Hồ Tôn Hiến đưa ra để khuyên Từ Hải hàng. Và Từ Hải, con người hùng ấy, trước kia đã từng xiêu trước “tấm lòng nhi nữ”, giờ nghe vợ tỉ tê tha thiết đến thế cũng phải lơi lỏng việc quân và cuối cùng ra hàng là điều dễ hiểu. Chúng ta chẳng trách họ, con người chứ có phải gỗ đá đâu. Và ta càng thêm phục Nguyễn Du.

Có người khi nhận xét bức tranh vẽ ngựa có nói: “Từ khi có con ngựa ấy thì trên đời không còn gì đáng gọi là ngựa nữa”. Cũng có thể nói, từ khi các nhân vật Truyện Kiều ra đời, nó mang tính điển hình đến mức hễ nói đến chàng bạc tình là nói “Sở Khanh đã ra đây cương lối nào” và “Máu ghen Hoạn Thư” cũng trở thành thành ngữ cố định. Thế mới biết tài Nguyễn Du.

Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi

Nét bút Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du sẽ làm cho Truyện Kiều sống mãi.

Câu 2

“Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy" (Tố Hữu). Không biết hình ảnh non tơ mà chói ngời sắc đỏ của những Trần Quốc Toản, Kim Đồng, Vũ Đình, Lý Tự Trọng... đã thấm đượm trong Tố Hữu, con người có tâm hồn, có tấm lòng “trang trải với trăm nơi” ấy, từ bao giờ để rồi vụt sống lên, cựa quậy, kết tinh lại trong Lượm. Hình tượng chú bé liên lạc trong kháng chiến chống Pháp:

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh

Chao ôi! Chú bé Việt Nam! Một chú bé gọn thon, hơi gầy gò, nhưng có gì đó như lanh lợi, tinh nghịch. Lượm đấy! Như con thoi trên thảm lúa xanh mơn mởn, cái vóc dáng “loắt choắt” ấy vụt chạy đến rồi lại chạy đi, mang theo những cánh thư trong chiếc xắc “xinh xinh”. Bên cạnh em, dường như mọi vật đều trở nên tí hon, ngộ nghĩnh vô cùng. Chiếc xắc đựng bao nhiêu tài liệu quan trọng, bao “điện khẩn” vẫn gọn nhẹ biết mấy! Nó đập đập bên hông theo từng bước chân “thoăn thoắt”. Đôi chân mảnh khảnh ấy lướt nhanh trên mặt đất, không, nó bay đi thì đúng hơn. Chân đi không bén đất nữa! Nhưng đẹp hơn tất cả vẫn là tư thế “nghênh nghênh” đầy tự hào, vui sướng, hân hoan của em. Chú bé nhỏ tí hon dường như bị sóng lúa ào ạt che lấp, chỉ còn “cái đầu” mang “ca lô đội lệch” là vẫn “nghênh nghênh”. Mai-a-côp-xki từng so sánh việc chọn chữ của nhà thơ với khai thác chất hiếm ra-đi-um:

Lấy một gam phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ

Giờ đây ta mới thấm thía! Bốn câu thơ, bốn từ láy. Thật hiếm khi đội quân từ láy tinh nhuệ của tiếng Việt được huy động hùng mạnh đến thế. In sâu trong ta, hiện lên trước mắt ta một bé Lươm, một Ga-vơ-rôt nhỏ nhắn, hồn nhiên, dũng cảm vùn vụt lao đi bất chấp những cơn mưa bom, bão đạn rạch nát bầu trời, mà dường như không cần một sự cố gắng toát mồ hôi nào, hết sức nhẹ nhàng, thanh thản, lại còn “huýt sáo vang” nữa chứ. Thật là thú vị hình ảnh so sánh của Tố Hữu:

Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng

Chim chích, con chim thân thuộc của làng quê Việt Nam, con chim bé nhỏ, lanh lợi mà người ta hầu như chỉ nhận biết sự có mặt của nó qua chùm âm thanh chiu chít vang lên sau lũy tre làng, giờ sẽ trở thành bất tử trong hình ảnh Lượm. Và con đường đồng kia trong phút chốc trở thành “đường vàng”. Vàng bởi rơm rạ phơi ra? Bởi ánh nắng trời? Hay bởi chính vầng hào quang tỏa ra từ những bước chân thoăn thoắt của vị “chiến thần” tí hon? Nếu cắt riêng khổ thơ ra thì đây chỉ là những “vần thơ tươi xanh” chứ không còn “lửa cháy” nữa. Ai bảo đây không phải là chú bé trên đường đi học? Ai không cảm nhận được âm hưởng thanh bình của cuộc sống? Nhưng không, chiến tranh là chiến tranh. Cánh chim mảnh mai bé nhỏ kia đang đối đầu với cái chết rình rập quanh đây, vậy mà nó vẫn hồn nhiên, vui nhộn lạ thường. Sức mạnh Việt Nam là thế đó:

Việt Nam ơi! Người là ai? Mà sức mạnh thần kỳ
Với cái chết không bao giờ chịu chết.

Lượm đâu đã “thôi rồi” sau cái phút “bỗng lập lòe chớp đỏ” kia!

Không phải là vô tình mà hai khổ thơ trên lại được lặp lại để kết thúc bài thơ. Với hàng loạt từ láy giàu sức biểu cảm, với nghệ thuật so sánh độc đáo, Tố Hữu đã thành công khi khắc họa hình tượng chú bé liên lạc dũng cảm. Lượm sống với chúng ta, sống giữa chúng ta, sống trong chúng ta là vì vậy!

Các bài học liên quan
Em hãy thuật lại (kể lại) chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 tết đến ngày mùng năm tháng giêng.
Hãy phân tích đoạn thơ sau:  “Bỗng nhận ra hương ổi... Vắt nửa mình sang thu” (Hữu Thỉnh - Sang thu)

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật