Đề: Nỗi nhớ trong Tây Tiến (Quang Dũng) và Bên kia sông Đuống (Hoàng cầm)

Tây Tiến của Quang Dũng và Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm được sáng tác vào năm 1948. Đấy là một trong những thời điểm khắc nghiệt và thử thách nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp.

BÀI LÀM

Tây Tiến của Quang Dũng và Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm được sáng tác vào năm 1948. Đấy là một trong những thời điểm khắc nghiệt và thử thách nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng mất mát, bi thương đều hiện ra trong các sáng tác tùy theo góc nhìn của từng nghệ sĩ chiến sĩ trong vạn ngày đạn lửa (Tố Hữu). Cả hai bài thơ đều có cùng hoài niệm về một quá khứ dần xa mà khả năng có thể một đi không trở lại.

Quang Dũng “bồi hồi nhớ Tây Tiến”; còn Hoàng cầm thì tâm tư chồng chất những nhớ thương tiếc nuối... Điều ấy khá rõ. Nhiều bài viết, bài giảng đã đề cập vấn đề ấy. Nhưng dường như, đọc lại hai bài thơ này, cảm giác hãy còn một điều gì ẩn chứa bên trong mà tác giả không nói hết, hoặc người đọc chưa kịp nhận ra? Nhớ trong hai bài thơ ấy là nhớ những gì, quan trọng hơn, là nhớ cái gì sâu sắc nhất, quán xuyến nhất của kẻ để hồn về sầm Nứa và người muốn hành hương trở lại Bên kia sông Đuống.

1. Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào về Hòa Bình thành lập Trung Đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh, anh viết bài thơ bồi hồi nhớ Tây Tiến. Bốn đoạn thơ dài ngắn khác nhau bàng bạc nhớ thương. Đoạn 1: Nhớ một vùng núi rừng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua. Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm hân hoan đời lính. Đoạn 3: Nhớ đời lính lãng mạn, bi hùng. Đoạn kết: Gửi trọn lòng mình về Tây Tiến.

Cách phân đoạn, phân ý như trên cho thấy cái khó, nếu xét về lô-gíc cấu trúc ý tứ bài thơ. Và nếu tìm cảm hứng chủ đạo của mỗi đoạn thơ thì lại không nhìn được tính nhất quán của trục liên tưởng hoài niệm. Toàn bộ hình ảnh, chi tiết ngôn ngữ, giọng điệu được tái hiện qua kí ức tựa như những thước phim quay chậm vừa đặc tả cận cảnh vừa lướt thoáng mờ nhòe, vừa liên tục triền miên vừa đứt nỗi đột ngột. Vì thế có những hình ảnh, ngôn từ không thể đi đến tận cùng hoặc xác định cách hiểu rõ ràng kiểu như: hội đuốc hoa, kìa em xiêm do, đoàn binh không mọc tóc, quân xanh màu lá, áo bào thay chiếu, dáng người trên độc mộc...

Thơ tựa một giấc mơ được nhớ lại. Giấc mơ ấy có quy luật riêng của nó. Đã nhiều lần Tây Tiến trực tiếp gọi tên nỗi nhớ nhưng cũng chỉ biết đấy là một nỗi nhớ chơi vơi:

- Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi 
- Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
     - Có nhớ dáng người trên độc mộc.

Nhớ cảnh, nhớ người, nhớ gian khổ bi thương, nhớ niềm vui khoảnh khắc, nhớ mơ mộng lãng mạn một thời trai trẻ... đủ cả cung bậc. Nỗi nhớ dường như xua tan dần sương khói của thời gian, không gian xa cách, làm hiện hình ngày càng rõ nét những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến trên núi rừng Tây Bắc ngày nào.

Nhưng đâu là nỗi nhớ bao trùm nhất, lớn nhất làm nên chất bi tráng đầy ám ảnh trong bài thơ được xem như là đỉnh cao nhất của thơ Quang Dũng? Phải chăng, nhà thơ muốn tập trung “làm hiện hình ngày càng rõ nét những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến?”

Trước hết, hãy trở về với cái tôi trữ tình tác giả trong bài thơ: Nguyên Đại đội trưởng Quang Dũng - thi sĩ Quang Dũng đang hồi tưởng, đang ngược dòng chảy xiết thời gian để trở về vùng kỉ niệm. Vùng kỉ niệm ấy không được mô tả như nó vốn có trong thực tại quá vãng mà được giãi bày như nó đang tồn tại trong hồn mình vào thời điểm đang nói. Có hai Quang Dũng, một Đại đội trưởng đoàn binh Tây Tiến của ngày ấy và một thi sĩ Quang Dũng của hôm nay. Người này đang thương nhớ người kia! Hiện tượng này xét ở góc độ tâm lí là bình thường. Cái khác thường là ở chỗ từ hiện tượng đó, thơ ca đã lên tiếng bằng cách nào - đúng hơn, bằng cách nói độc đáo không lặp lại như thế này.

Tố Hữu, trong bài thơ Nhớ đồng, đã viết: Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi. Rồi đến Việt Bắc: Mình đi mình có nhớ mình. Xuân Diệu cũng đã từng tự phân tích: Từ tôi phút ấy sang tôi phút này... Rất có khả năng, hai cái tôi ấy đang nới dần khoảng cách thời gian, không gian, đang dự báo lo âu về cái ngày mình không còn là mình của ngày xưa nữa. Cho nên, cái tôi của ngày cũ bỗng hiện lên chấp chới bao màu sắc, trong ánh hào quang của rực rỡ tưởng tượng được nhân lên. Chiếc áo thô mộc đơn giản của cô gái miền núi bỗng thành xiêm áo tự bao giờ, tiếng khèn điệu nhảy bỗng trở nên mang điều ảo huyền những người lính rụng tóc hoặc cạo đầu, đã xanh vì sốt bỗng thành đoàn binh không mọc tóc ... dữ oai hùm; mộ hoang u tịch bên đường hóa thành rải rác biên cương mồ viễn xứ, trang phục người lính thiếu thốn, chắp vá trở thành áo bào như trong trí tưởng người chinh phụ ngày nào... Ngôn ngữ được cách điệu nhiều từ Hán Việt; giọng điệu pha chút tráng ca thời cổ lai chinh chiến... Thiên nhiên Tây Bắc hoang liệu được tô đậm vẻ dữ dằn, khốc liệt nhưng lại thiên trọng về vẻ phi thường, lãng mạn của sự dữ dằn, khốc liệt ấy... Tất cả nhằm vẽ hình ảnh người lính - cái tôi hóa thân của nhà thơ trong không - thời gian quá khứ có một không hai ấy.

Như vậy, nhớ - một - tôi - thời - Tây - Tiến chính là nỗi nhớ mãnh liệt nhất là hoài mong vô vọng mà tràn đầy niềm tin một khi Sông Mã xa rồi... Nỗi nhớ ấy luôn làm con người thấy mình bé lại và người khác nhận ra mình lớn lên. Đó là nơi nương tựa vĩnh cửu ngỡ như mơ hồ mà vững chãi. Quên mới đáng sợ, và quên chính mình hôm qua mới là cái đáng sợ nhất! Khổ cuối bài thơ bộc lộ tư tưởng nghệ thuật ấy. Từ “Tây Tiến” được nhắc hai lần trong hai hàm nghĩa khác nhau:

Tây tiến người đi không hẹn ước
       Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Đây là Tây Tiến của người đi, của người đã xa, Tây Tiến trong ký ức, Tây Tiến trong thăm thẳm một chia phôi. Câu thơ một mình làm cả cuộc phân ly buồn đến mênh mang ...

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
     Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Và đây là Tây tiến của hồn về, của người nỗ lực mong trở lại, là Tây Tiến trong thề hứa muôn đời chung thủy cùng với một tôi một thuở, mặc dòng sông đời thác cuốn vẫn chấp nhận chẳng về xuôi. Câu thơ reo lên phẩm chất người đẹp đến nao lòng...

Ngẫm lại những bài thơ hay một thời hình như đều có nỗi nhớ kì lạ ấy: Vu vơ, Quê hương, Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh, Nhớ rừng của Thế Lữ, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Tiếng hát đi đày, Nhớ đồng, Việt Bắc của Tố Hữu...

Nhân đây, xin trích hướng dẫn giảng dạy của Sách giáo viên Văn 12 (NXB Giáo dục - 2000) về khổ cuối nói trên: “Hình ảnh Hồn về sầm Nứa chẳng về xuôi: chẳng về xuôi nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân; còn Hồn về sầm Nứa có thể hiểu: Chí nguyện của các chiến sĩ sang nước bạn, hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù đã ngã xuống trên đường hành quân, hổn (tinh thần các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội...” (trang 62).

Thật vậy chăng?

2. Những chuyện muôn đời không nói năng

Bên kia sông Đuống là nỗi đau mất mát, là niềm thương tiếc không nguôi về một miền quê đang chìm trong bóng giặc. Sông Đuống - linh hồn quê hương Kinh Bắc đang nằm nghiêng nghiêng trong hồi tưởng của đứa con xa. Quê nhà dần dần hiện ra trong mạch cảm xúc tuôn trào không kiềm chế của khúc lý hương.

Hoàng Cầm nhớ cảnh đẹp, trù phú:

              Ngày xưa cát trắng phẳng lì…
Một dòng lấp lánh...
        Xanh xanh bãi mía bờ dâu
    Ngô khoai biêng biếc...
                     Quê hương ta lúa nếp thơm nồng...

Cảnh ấy có thể bắt gặp trên nhiều trang thơ khác, ở nhiều miền quê khác. Có gì ấn tượng?

Rồi Hoàng Cầm nhớ người thân yêu: những nàng, những em, những cô hàng xóm, những cụ già phơ phơ tóc trắng, những mẹ già nua còm cõi...

Từng ấy cảnh, từng ấy con người vẫn chưa làm thành nỗi nhớ sâu lắng mang dấu ấn tình cảm và sáng tạo của thi nhân. Cho đến khi những cảnh, những người kia gắn chặt với một vùng văn hóa mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên thì Bên kia sông Đuống mới sáng bừng lên tư tưởng nghệ thuật của nó. Những hình tượng thành công nhất của bài thơ này luôn gắn liền giữa nỗi nhớ cảnh nhớ người với những giá trị tinh thần muôn đời của xứ Kinh Bắc. Có thể nói rằng, tiếc thương lớn nhất, nỗi đau lớn nhất chính là sự tan vỡ những giá trị tinh thần khi Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn. Hòa bình rồi sẽ trở lại; con sẽ được về bên mẹ, kẻ li hương sẽ trở lại quê nhà; nhưng những giá trị mấy trăm năm ấy không thể cùng lúc hồi hương. Đấy là thứ "Nhật mộ hương quan hà xứ khứ"!

Khó có thể vẽ bức tranh tang thương dâu bể này lần thứ hai:

               Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
                                  Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
           Bây giờ tan tác về đâu?

Không thể miêu tả nỗi nhớ về một nụ cười gái quê nào dung dị mà nồng ấm, chói lòa đến thế, đấy là nụ cười thiếu nữ Việt Nam của mấy thế kỉ (bây giờ thì tan rồi, mất rồi!):

    Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
 Những cô hàng xóm răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng...

Và không bao giờ có thể tả được gương mặt người mẹ trong trạng huống có một không hai này:

Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
              Khuôn mặt bừng lên như đựng trăng
           Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
                      Những chuyện muôn đời không nói năng...

Với bốn dòng thơ trên, Hoàng cầm đã có thể ghi tên mình vào những nhà thơ có câu thơ viết về mẹ hay nhất của văn học Việt Nam xưa nay. Những câu thơ trích trên như những chuỗi ngọc lấp lóa - không thể nào nhận rõ từng sắc màu phản chiếu. Đấy là những dòng thơ tuôn chảy từ trong vô thức. Hình như tác giả không có chủ định làm thơ?(...)

Các bài học liên quan
Đề: Phân tích bức tranh Mùa thu nay khác rồi trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
Đề: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.  Ôi những cánh đồng quê chảy máu... Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Đề: Phân tích truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ của nhà văn Sơn Nam.
Đề: Bằng một số lược đoạn truyện ngắn Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải, anh (chị) đã cảm nhận gì về vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước?

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 12 mới cập nhật