Đọc hiểu Bài thơ số 28
Gợi dẫn 1. Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà thơ lớn, nhà văn lỗi lạc của nhân dân ấn Độ. Sinh ra trong một gia đình quý tộc Bà La Môn yêu nước, Ta-go sớm được tiếp thu những tư tưởng nhân đạo tiến bộ. Sự nghiệp sáng tạo của Ta-go rất đồ sộ và có giá trị nhân đạo cao cả.
Gợi dẫn:
1. Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà thơ lớn, nhà văn lỗi lạc của nhân dân ấn Độ. Sinh ra trong một gia đình quý tộc Bà La Môn yêu nước, Ta-go sớm được tiếp thu những tư tưởng nhân đạo tiến bộ. Sự nghiệp sáng tạo của Ta-go rất đồ sộ và có giá trị nhân đạo cao cả.
Ông luôn ca ngợi tình yêu thương giữa con người với con người. Ta-go là người đầu tiên ở châu á được tặng giải thưởng Nô-ben về văn chương với tập Thơ Dâng. Viết nhiều thể loại và đều thành công nhưng nhắc đến ông người ta vẫn thích nhắc đến thơ tình. Bài thơ số 28 trong tập Người làm vườn là bài thơ tình nổi tiếng của Ta-go và là một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới.
2. Thơ tình chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Ta-go. Giống như phần lớn thơ tình của Ta-go,Bài thơ số 28 thể hiện một quan điểm rất đúng đắn và tiến bộ về tình yêu. Nhân vật trữ tình “anh” trong bài thơ đã thể hiện một tình yêu chân thành, cao cả nhưng cũng lại rất đời thường. Qua cảm xúc của nhân vật trữ tình, bài thơ đã thể hiện được một quy luật rất đặc trưng của tình yêu : tình yêu là diệu kì và bí ẩn.
3. Tâm trạng thơ là tâm trạng rất thật của người đang yêu. Yêu là khao khát khám phá thế giới tâm hồn của người mình yêu, yêu là khát khao đồng cảm và đồng điệu. Nhưng đó cũng là điều không bao giờ đạt được. Chính những bí ẩn của tâm hồn là điều hấp dẫn nhất của tình yêu, bởi sự nhàm chán, sự trần trụi sẽ giết chết tình yêu. Cảm xúc thơ chân thành, ngôn ngữ trong sáng giản dị, giàu hình ảnh và một quan niệm yêu thương đúng đắn đã làm nên sức sống cho bài thơ.
4. Đọc chậm, diễn cảm, giọng tâm tình.
II - Kiến thức cơ bản
Bài thơ số 28 rút từ tập Người làm vườn là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ đề tình yêu của Ta-go. Bắt đầu từ sự cảm nhận về đôi mắt của người con gái, không phải trong trạng thái bình thường – mà là đôi mắt ở trạng thái trắc ẩn, u buồn, dường như thấp thoáng nỗi bất lực :
Đôi mắt băn khoăn của em buồn,
Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.
Hình ảnh vừa ẩn dụ vừa nhân hoá ấy đã xác định tâm thế của nhà thơ – đó là nỗi ám ảnh da diết khôn nguôi trước ánh nhìn chất chứa nhiều nghi ngại. Không phải là dư ảnh của phút thoáng qua nhất thời, bất chợt mà ánh nhìn dường như chạm phải niềm tiên cảm sâu xa tự đáy lòng khiến tác giả thốt lên lời tự bạch :
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,
Anh không giấu em một điều gì
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh.
Ngỡ như mâu thuẫn mà lại có lí biết nhường nào ! Chính vì anh chẳng giấu điều gì mà em không sao biết được. Biện chứng chính là ở đó.
Chắc hẳn nhận ra cuộc đời có thật dưới mắt em chưa hẳn là tất cả những gì anh có, nên khiến em phải băn khoăn, muốn nhìn vào tâm tưởng của anh? Lẽ thường, trước những gì hiển hiện – người ta dễ tưởng như đã được tường tận mọi điều. Vậy nhưng, ở trường hợp cô gái trong bài thơ lại như mặt trăng muốn soi vào biển cả, còn bị hấp dẫn mạnh mẽ bởi một sức cảm vô hình. Tất thảy những gì nơi cuộc đời trần trụi chỉ là những gợi ý về một phía nào đó thẳm sâu linh diệu! Sự chân thành, giản dị trong đời cũng có một sức hấp dẫn riêng. Nhà thơ triển khai ý tưởng này qua những so sánh – đối lập đặc sắc:
- Nếu đời anh chỉ là viên ngọc…
- Nếu đời anh chỉ là một đoá hoa…
Mỗi so sánh là một đối lập thi vị giữa hai phạm trù khái quát và cụ thể, vô cùng và hữu hạn. Khi cái khái quát có trị số bằng cái cụ thể, cái vô hạn có giá trị bằng cái hữu hạn – thì hệ quả ý nghĩa của nó thật giản đơn (đời = viên ngọc, = chuỗi hạt nữ trang, = đoá hoa, = trang điểm mái tóc). Tuy nhiên, cuộc đời là rộng lớn, là cõi vô biên nhưng cuộc đời ở đây là cuộc sống có nghĩa. Tác giả sau những diễn giải đi đến quy nạp:
Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim
Thông thường, mệnh đề diễn giải thường có nội hàm nhỏ hơn mệnh đề quy nạp nhưng trong đoạn thơ điều đó dường như ngược lại. Rõ ràng : trái tim – về hình thức khái niệm nhỏ hơn cuộc đời, nhưng trong nghĩa biểu hiện: Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó thì hữu hạn mà vô cùng.
Từ cuộc đời đến trái tim, nhà thơ đã thực hiện một sự chuyển nghĩa linh hoạt từ cấp độ này sang cấp độ khác, thực chất là chuyển thái độ tình cảm từ bình diện hình thức sang bình diện nội dung làm tiền đề cho đoạn thơ tiếp theo – vẫn với bút pháp so sánh – đối lập:
- Nếu trái tim anh chỉ là một phút giây lạc thú…
- Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau…
Không chỉ là cụ thể, không chỉ giới hạn là niềm sướng vui hay bất hạnh – trái tim bao hàm tất cả những cung bậc phong phú, phức tạp, tinh tế, vi diệu nhất của cuộc đời – chính vì thế tác giả khái quát:
Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu
Sự khái quát này cũng chính là một lần chuyển nghĩa, và ở đây: Chuyển từ lượng sang chất. Tình yêu là một phương diện xác định của trái tim, những biểu hiện của tình yêu là vô cùng rộng lớn.
Cả bài thơ là sự triển khai các tầng hàm nghĩa của triết lí tình yêu: cuộc đời – trái tim – tình yêu – nỗi vui sướng khổ đau vô biên – những đòi hỏi và sự giàu sang bất tận. ý nghĩa cuộc sống cao đẹp là một tình yêu lớn, không bị giới hạn bến bờ; tình yêu không chỉ là phút giây sướng vui hay buồn khổ mà còn chan chứa ý vị nhân văn. Hai câu kết là một khái quát biện chứng. Dễ nhận biết là những điều khác biệt. Trái tim – tình yêu nói tới ở trên đã và đang nhịp cùng cuộc sống cô gái, sự đồng điệu và giao hoà đến dường như không khoảng cách nên đâu dễ nhận ra!
Cả bài thơ, qua những trường đoạn luận lí nếu – nhưng trở đi trở lại thể hiện đặc sắc tình cảm dồn nén mỗi lúc mỗi gia tăng của một tâm hồn lớn. Với giọng điệu triết lí, Bài thơ số 28 vừa bản lĩnh vừa trữ tình sâu sắc, thể hiện quan niệm cuộc đời – đồng thời là khát vọng của tình yêu cao đẹp, xứng đáng được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của Ta-go và kho tàng thơ tình nhân loại. Dư âm sâu xa của ý thơ mãi còn tươi thắm một lời nhắn nhủ, rằng cuộc đời và tình yêu trần thế không bao giờ là những điều xa lạ, mà Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy…
III - liên hệ
Tình yêu bao giờ cũng đồng nghĩa với sự khám phá và cảm nhận về nhau. Không hẳn là cả cuộc đời rộng lớn, không hẳn là trái tim vô biên sung sướng khổ đau như Ta-go viết trong Bài thơ số 28, thi sĩ Xuân Diệu thể hiện một phương diện tình yêu trong bài thơ Giọng nói:
Em ngồi ríu rít ở sau xe
Em nói, lòng anh mải lắng nghe
Thỉnh thoảng tiếng cười em lại điểm
Đời vui khi được có em kề.
Ôi! Giọng sao mà rất mến thương
Em như giếng mát đến soi gương
Dù ai tốt tiếng như ca hát
Cũng chẳng bằng em giọng nói thường.
Gió thổi nhiều khi giọng nói bay
Không cần nghĩa chữ, vẫn nghe hay
Sau xe, những tiếng em phơ phất
Cởi hết ưu phiền gửi gió mây.
Ước được nghìn năm nghe giọng ấy,
Đèo em đi mãi cuối không gian!
- Và khi không nói, em im lặng
Anh vẫn nghe hay tựa tiếng đàn.
30 – 1 – 1963
- Tuần 1 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 2 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 3 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 4 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 5 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 6 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 7 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 8 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 9 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 10 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 11 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 12 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 13 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 14 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 15 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 16 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 17 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 18 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 19 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 20 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 21 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 22 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 23 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 24 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 25 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 26 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 27 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 28 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 29 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 30 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 31 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 32 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 33 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 34 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 35 sgk ngữ văn lớp 11
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo