Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ xinh xắn về tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống và khát vọng hiến dâng sức mình làm cho cuộc đời thêm phong phú. Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980

BÀI LÀM 1

Khi nàng xuân nhẹ lướt trở về, trên trái đất như phủ lên một sức sức sống rạo rực kỳ diệu; hương xuân quyện vào thiên nhiên, sông núi đất trời, tình xuân thấm vào tâm hồn mỗi con người với bao niềm hạnh phúc. Cả mùa xuân bừng nở giữa khoảng không gian tươi xanh ấy. Một thoáng bâng khuâng, ta chợt nhận ra hình như hương xuân, sắc xuân, tình xuân và cả mùa xuân đang hòa vào trong bản xô nát mùa xuân của nhà thơ Thanh Hải: Mùa xuân nho nhỏ.

Mọc giữa dòng sông xanh...
Nhịp phách tiền xứ Huế.

Đọc kĩ bài thơ, ngẫm nghĩ, im lặng, ta sẽ nghe được nhịp đập rạo rực mùa xuân đầy sức sống. Qua đó, chúng ta càng hiểu bản hợp tấu kỳ diệu của mùa xuân, của tâm hồn, của cuộc sống...

Mùa xuân nho nhỏ - Tên của bài thơ đã tạo cho người đọc một cảm giác dễ chịu, thoải mái. Mùa xuân nho nhỏ, vâng - mùa xuân của Thanh Hải thật đơn sơ và giản dị ở mức “nho nhỏ” mà thôi.

Mở đầu, tác giả viết:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc...
Tôi đưa tay tôi hứng...

Một bức tranh xuân thật đơn sơ và giản dị! Tác giả đã lựa chọn những gam màu thật dịu, thật tươi để phác bức tranh xuân của mình, "dòng sông xanh - Hoa tím biếc”. Vài nét lướt nhẹ nhàng, nhưng tác giả đã cho người đọc thưởng thức mùa xuân đầy sức sống, trẻ trung, tươi và xanh. Mùa xuân của dòng sông, của bông hoa hay của đất trời của quê hương xứ Huế? Những mảng màu sắc hình ảnh giản dị mộc mạc nhưng hài hòa và nên thơ. Đoạn thơ gây ấn tượng và cảm xúc trong lòng người đọc. Như con tằm, tác giả đã rút những sợi tơ của lòng mình dệt nên bài thơ về quê hương bằng tất cả tình yêu của trái tim mình. Câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng mà duyên dáng, say sưa. Tiếng chim chiền chiện vút cao phải chăng là nốt thăng rộn ràng, tươi vui của bản nhạc mùa xuân. Tiếng chim ngân vang, kéo dài một âm sắc thánh thót, tiếng chim ấy như lan tỏa, hòa quyện vào bầu trời xuân ấy. Giữa bức tranh xuân đầy màu sắc, Thanh Hải như đón nhận, như lắng nghe âm thanh của sự sống, của thiên nhiên đang trào dâng, ngân nga. Từng giọt long lanh rơi “Giọt sương ban mai” - Hay giọt âm thanh? “Giọt long lanh rơi” - Giọt tình yêu hay hạnh phúc? Ô phải rồi, đó là giọt mùa xuân êm đềm, thiết tha, giọt mùa xuân tiếng chim, của giọt sương hạnh phúc được Thanh Hải trân trọng, nâng niu - áp vào trái tim mình. Mùa xuân, mùa xuân trong Thanh Hải là bức tranh đơn sơ mộc mạc nhưng đầy màu sắc. Cả tiếng chim chiền chiện vút cao, là giọt sương ban mai - mùa xuân là tất cả.

Trong bản sô nát của Thanh Hải, ta còn bắt gặp một mùa xuân trẻ trung, xôn xao đầy sức sống, đó là mùa xuân của “người cầm súng” của “người ra đồng”.

Mùa xuân người cầm súng
Tất cả như xôn xao.

Các thế hệ trước đã ngã xuống để bảo vệ mầm hạnh phúc của dân tộc; và giờ đây, mầm hạnh phúc ấy đã bừng nở thành hoa hạnh phúc - bừng nở thành niềm tin và hy vọng. Mùa xuân “người cầm súng”, với trách nhiệm tiếp nối cha anh bảo vệ đất nước, bảo vệ mùa xuân của dân tộc. Hình ảnh người ra đồng, là người tô điểm cho mùa xuân là họa sĩ về những mảng xanh lên mùa xuân; và tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao - sức xuân đang bừng lên. Với nhịp độ khẩn trương, dồn dập, tưng bừng, hoạt động trên quê hương, đất nước sau ngày giải phóng.

Hình ảnh thơ giúp ta hiểu được, trên mảnh đất vừa thoát khỏi đau thương, tất cả như rạo rực, như đang nảy nở, sinh sôi trong cái men say của mùa xuân trong cuộc sống hòa bình. “Hối hả”, “xôn xao” hai từ láy vừa gợi âm, gợi hình, gợi cảm xúc và gợi cả suy tư. Ồ! Một thanh âm từ rất xa vẳng lại, nhanh nhiều, thanh âm “xôn xao” của mùa xuân, của đất trời Việt Nam quê hương ta đấy.

Câu thơ nhịp nhàng với những vần bằng tha thiết, vần trắc khỏe mạnh, bỗng trầm hẳn, lặng đi trong thoáng suy tưởng của nhà thơ.

Đất nước như vì sao
Cứ tiến tên phía trước.

Tương lai Tổ quốc đang hiện lên rực rỡ huy hoàng, nhưng Thanh Hải lại nhớ về lịch sử, dân tộc - nhớ về quá khứ bốn nghìn năm oai hùng “Vất vả và thương đau”. Qua đó, ta càng hiểu thêm về Thanh Hải - một tâm hồn nồng nhiệt, gắn bó với mùa xuân với đất nước, và sự hy vọng. “Đất nước như vì sao” của tác giả về một ngày mai đẹp đẽ thật đáng quý, đáng yêu!

Say sưa trong khúc nhạc mùa xuân, tơ lòng tác giả cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc đoạn thơ cuối, ta cảm nhận được ý nguyện của tác giả: muốn cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng, cho Tổ quốc “bay lên bát ngát mùa xuân”.

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Điệp từ “Ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết chân thành càng làm ta xúc động bởi thái độ sống của nhà thơ. Sống phải làm nên “cái gì đó” cho đời, dù
rất nhỏ...

Bản hòa ca mùa xuân ngân lên với những nốt thang rộn rã, tươi vui và với bè trầm tĩnh lặng, du dương. Nhà thơ lặng lẽ “nhập vào hòa ca” - nhập vào bản xô nát cuộc đời một chút xíu gì lặng lẽ, một chút xíu dễ thương làm sao. Nốt trầm xao xuyến một nốt trắm lặng lẽ đơn sơ nhưng không thể thiêu trong bản giao hướng mùa xuân. Nốt nhạc trầm ngân nga, lặng lẽ sau âm hưởng cao nhưng thường đế lại trong lòng người ấn tượng xao xuyến, bâng khuâng, sâu lắng, suy tư.

Xuân về đúng vào thời gian mà nhà thơ trọng bệnh, nhưng sức sống mãnh liệt đến diệu kỳ của mùa xuân đã bừng nở trong tâm hồn nhà thơ. Sức trẻ thôi thúc, rộn rã cùng nhịp đập trái tim nằm trên giường bệnh, nhà thơ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thiết tha, tràn đầy tình yêu thương lạc quan và hy vọng:

Một mùa xuân nho nhỏ...
Lặng lẻ dâng cho đời...
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Âm điệu thơ lắng dần ở khổ thứ tư, rồi chìm hẳn ở các khổ sau. Đọc thơ, ta như nghe được tiếng thì thầm, miên man của mùa xuân, của lòng người. Một lần nữa, tác giả lại nhắc lại tên bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Một tiếng chim một nhành hoa, một nốt trầm xao xuyến tạo nên một mùa xuân nho nhỏ. Nếu mỗi con người là “mùa xuân nho nhỏ” thì đất nước sẽ là cả một mùa xuân vĩnh viễn với bầu trời đầy chim, đất đầy hoa và lòng người đầy tiếng hát. Ước muốn tha thiết của Thanh Hải là được cống hiến cho cuộc đời tất cả tuổi thanh xuân, tất cả cuộc sống của mình. Ông nguyện hát cho đất nước cho quê hương bản Nam ai, Nam bình; bản xô nát của mùa xuân, bản xô nát của lòng người cùng hòa âm thành bản hòa ca bất tử của dân tộc.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh thiên nhiên đơn sơ mộc mạc, một bản nhạc dịu dàng, tha thiết. Một tâm hồn chân thành tự nguyện. Mùa xuân nho nhỏ - Đi giữa bầu trời xuân - hình như tôi nghe đâu đây vọng về bản hòa ca mùa xuân bất tử.

BÀI LÀM 2

Đọc Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ quê xứ gốc Huế ấy, ta dễ dàng nhận ra chủ đề của tác phẩm: “Ta làm con chim hót, ta làm một nhành hoa... Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời...”. Đáng trân trọng làm sao tình yêu cuộc sống của người thi sĩ khi chúng ta biết rằng bài thơ ấy ra đời lúc anh trên giường bệnh và chỉ ít lâu sau anh mất! Có phải chính giây phút giáp mặt với cái chết, giây phút giáp ranh mùa đông lạnh giá và mùa xuân ấm áp, cái thời điểm kì diệu đó đã khiến tấm lòng con người bừng lên sự sống mới, khiến ngòi bút nhà thơ... nở hoa. Đã có nhiều người bình luận về nội dung tác phẩm, ở đây, chúng tôi thử đi từ ngôn ngữ nghệ thuật...

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Tại sao màu nước sông lại xanh, mà không là “dòng sông trong mát” (bài Vàm Cỏ Đông của Hoài Vũ), không là “dòng sông đỏ nặng phù sa” (bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi)? Có phải đây là màu nước của Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa xuân đang về? Mùa xuân trang trải êm trôi một dòng xanh dịu mát, bỗng mọc lên ở giữa: “Một bông hoa tím biếc”. Cùng một gam màu lạnh, nhưng sắc tím biếc của bông hoa nổi trội đậm đà, nồng ấm cả dòng sông xanh. Bông hoa là có thật, hãy cùng là dáng hình của niềm tin, là sắc màu thân quen của quê hương xứ Huế mà đôi mắt nhà thơ từng bắt gặp, ngòi bút nhà thơ từng ghi chép? Nghệ thuật dựng hình, pha màu, kết hợp đảo cấu trúc, tạo cho câu thơ nhịp đi mau lẹ bất ngờ, nhịp của ngôn từ và nhịp của cảm xúc. Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người, mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thì đây, một nét đẹp của mùa xuân:

Ơi! Con chim chiền chiên
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay, tôi hứng.

Nhà thơ thực đã đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của tâm hồn. Anh dũng từ thân “ơi” để gọi chú chim xinh nhỏ và lanh lợi, rồi hỏi “hót chi”, như ngỡ ngàng thích thú, như đùa vui, níu kéo. Từ đó, anh lắng nghe tiếng chim hót. Nghe bằng tai chưa đã, anh nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo. Qua câu chữ anh dùng, “tôi đưa tay tôi hứng” tiếng chim vang xa bỗng gần lại, rõ ràng tròn trịa nhưng kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu, rơi rơi, rơi mãi tưởng chừng không dứt. Nghệ thuật vì ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Nói nghệ thuật cũng để hiểu nội dung, vì nhà thơ có bao giờ có ý tỉa tót ngôn từ cho văn chương hoa mỹ, mà chủ yếu anh hướng về cuộc sống, sự sống. Mười câu thơ tiếp theo là hình ảnh cuộc sống của đất nước nhân dân ta sau chiến thắng, chiến thắng nhưng chưa thật hoàn toàn yên ổn:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ...

Ở đoạn này có ba hình ảnh đẹp: vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ ra trận. Trên nương mạ, ruộng lúa của bác nông dân, mầm non, sức sống thanh xuân đang đua nhau trỗi dậy, giục giã, thôi thúc lòng người. Và hình ảnh thứ ba: “Đất nước như vì sao - Cứ đi lên phía trước”. Mùa xuân, sức sống thanh xuân lớn dần, lớn dần từ vòng lá ngụy trang mở ra cả cánh đồng lúa, từ mỗi con người cụ thể trong chiến đấu, trong lao động hòa nhập, chung đúc thành “đất nước bốn ngàn năm”, hóa thành những vì sao đi lên, bay lên, ngời sáng lung linh. Nói rằng tác giả khéo chọn được từ “Lộc” đa nghĩa thật đúng, hoặc khéo dùng phép liên tưởng so sánh cũng đúng. Bởi vì đến phút này, Thanh Hải đã chuyển từ hiện thực lãng mạn, là tấm lòng yêu thương, mơ mộng khát khao sống, khát khao hiến dâng, ca ngợi. Hiểu như thế chúng ta sẽ đồng cảm với nhà thơ khi anh kết thúc bài thơ bằng những dòng chữ cất lên từ gan ruột:

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
...
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình...

Đến đây, có lẽ nhà thơ không cầm bút nữa, mà đang ôm đàn, gõ phách hát bài ca mùa xuân, bài ca cuộc sống... Những biện pháp tu từ như điệp ngữ (ta làm, ta làm... nước non, nước non...) ẩn dụ (mùa xuân nho nhỏ, nốt trầm xao xuyến, nhịp phách tiền đất Huế...), hoán dụ (tuổi hai mươi, tóc bạc) câu chữ, âm thanh nhịp điệu... hài hòa, ríu rít, ngân nga lan tỏa hết như một điệu dân ca xứ Huế vậy. Tiếng thơ của một người bỗng thành tiếng hát của muôn người, giục giã muôn người.

Thơ viết trên giường bệnh xưa nay không hiếm. Nhưng để bài thơ thực sự sống thay tác giả, ở lại với mọi người, trò chuyện an ủi động viên mọi người thì là việc hiếm. Ở chương trình Văn lớp 9, học kì I, chúng ta đã biết bài Có bệnh bảo mọi người của Mãn Giác thiền sư thời Lý, thế kỉ XII. Chắc phải trải qua một chặng đường dài tu luyện vô cùng gian khổ để đạt tới độ uyên thâm, hoàn hảo của sự giác ngộ - sự “Mãn giác” - vị thiền sư ấy mới sáng tác được một bài thơ với hình tượng tuyệt vời “Ai bảo xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước nở nhành mai”. Nhành mai ấy chính là biểu tượng của tình yêu, niềm tin cuộc sống, đã bất tử đến nghìn năm nay. Với bài Mùa xuân nho nhỏ chưa ai dám đoán định nó sẽ tồn tại bao lâu. Người viết bài này cũng không có ý đem so sánh nó với Có bệnh bảo mọi người của Mãn Giác. Tuy nhiên, với Thanh Hải nhà thơ chiến sĩ trải qua 30 năm vừa chiến đấu vừa sáng tác, sống và viết vì sự nghiệp lớn lao của nhân dân, đất nước, chúng ta cần biết trân trọng. Từ những bài thơ đầu, tiêu biểu là Mồ anh hoa nở viết năm 1956 với hình ảnh đặc sắc “bông hồng nở và nở - Hương thơm bay và bay...", đến bài Mùa xuân nho nhỏ, sáng tác năm 1980, trước lúc đi xa anh đã cố gắng vượt lên từng bước, đã để lại cho đời những tiếng thơ “chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành”. Riêng ở bài thơ cuối Mùa xuân nho nhỏ những đặc tính chân chất, bình dị, đôn hậu, chân thành kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung và nghệ thuật, nét tài hoa của ngòi bút và phút thăng hoa của tâm hồn, đạt tới vẻ đẹp thơ đích thực. Đến mùa xuân năm 1993 này, bài thơ đã được 13 tuổi và chắc còn sống nhiều, nhiều năm nữa trong lòng mỗi bạn đọc, kể từ người trẻ tuổi đến những bậc cao niên.

BÀI LÀM 3

Nhà thơ Thanh Hải sáng tác bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, khi đất nước ta đang có nhiều khó khăn: chiến tranh biên giới, nền kinh tế chưa phát triển, bản thân ông đang trên giường bệnh. Nhưng tác giả đã vượt lên tất cả, vượt lên cả chính mình với một niềm vui phóng khoáng, bay bổng nhưng không phải không còn trăn trở, bằng những tác phẩm thơ được dư luận yêu mến: Mùa xuân nho nhỏ. Cùng với những Mồ anh hoa nở, Núi vẫn nhớ người vẫn thương, Cháu nhớ Bác Hồ, A Vầu không chết.... Mùa xuân nho nhỏ là một thành công mới của nhà thơ Thanh Hải trước lúc nhà thơ đi xa. Bài thơ nhanh chóng được phổ nhạc và được chọn dạy trong chương trình văn học nhà trường phổ thông.

Bài thơ gồm 5 khổ, tuy dài ngắn có khác nhau nhưng khá liền mạch, khiến đã đọc là phải đọc liền một hơi.

Mở đầu bài thơ ta gặp ngay một hình ảnh đẹp nhưng lạ lẫm:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Hoa gì mà lạ thế, lại có thể mọc giữa dòng sông xanh? Thì đó rất có thể là một lùm hoa lục bình (hoa bèo nước), hay đó có thể là hoa muống nước. Đất nước ta không thiếu gì loài hoa mọc trong nước, nổi trên nước. Nhưng vượt lên tất cả vẫn là bông hoa tím biếc, mang nhiều ý nghĩa tượng trưng hơn là ý nghĩa thực tế. Đó là bông hoa tím biếc của cuộc sống đang vươn lên. Mặc dù đất nước hồi ấy đang còn khó khăn, song cuộc xây dựng đã và đang được triển khai khá rộn rịp. Và ở đâu mà chẳng có cái màu tím hi vọng, thủy chung của cuộc sống mới. Thanh Hải đã nắm bắt được chất liệu cuộc sống đó, rồi hình tượng hóa nó trong một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh, gợi dậy bao khát khao hi vọng cho đất nước, cho con người.

Nhưng còn lại tiếng hót của con chim chiền chiện, một loài chim nhỏ xinh, vừa bay bổng, vừa hót ca. Không gian theo tiếng hót như đang mở rộng từ tầm rộng đến tầm cao, khiến cho tiếng thơ vừa mở, đã có ngay cái thế xa rộng, thế bay bổng:

Ơi con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời

Hình ảnh con chim chiền chiện của thơ Thanh Hải lại gợi người đọc nhớ đến con chim chiền chiện của Trần Hữu Thung trong bài thơ Thăm lúa từ thời kháng chiến chống Pháp: “Bay vút tận trời xanh, Chiền chiện cao tiếng hót, Lúa cũng vừa sậm hột, Em tiễn anh lên đường”. Con chim chiền chiện của Thanh Hải cũng vừa bay lên trời xanh, vừa cao giọng hót, rất có thể là khúc ca vui náo nức. Cánh chim nhỏ mà đằm thắm, tiếng chim hót lảnh lót mà náo nức, cùng với hình ảnh “Một bông hoa tím biếc”, “Mọc giữa dòng sông xanh” gợi dậy một không gian thoáng đãng, bay bổng mà rất Huế, nhờ cách dùng các hình ảnh: màu tím Huế, sông Hương xanh, các từ địa phương: một từ “ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đi nên sau động từ “hót”.

Tất cả những hình ảnh ấy đã đọng lại trong hai câu thơ cũng hết sức lung linh:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay, tôi hứng.

Có thể đó là tiếng chim chiền chiện vừa hót vừa bay, đọng lại thành giọt giọt âm thanh đều đặn. Nhưng bên cạnh đó còn là giọt nắng nữa - một sự cụ thể hóa những gì trong trẻo, tinh túy của đất trời, hứng trên đôi tay người trân trọng, ở đây, thái độ trân trọng cuộc sống của nhà thơ quả đã được nâng lên đến mức điển hình, trở thành điểm tựa cho niềm tin yêu của cuộc sống mới. Và chỉ với khổ thơ đầu, nhà thơ Thanh Hải đã thành công, khi chinh phục được cảm hứng của người đọc bằng những hình ảnh thơ tuyệt đẹp, sống động.

Khổ thơ 2, tác giả tiếp tục triển khai từ thơ về mùa xuân hối hả đến với mọi tầng lớp xã hội. Đối với người cầm súng, thì đó là lộc xuân giắt đầy quanh những vòng lá ngụy trang. Còn đối với người làm ruộng thì “Lộc trải dài nương mạ”, hình ảnh thật mà đẹp như ước mơ.

Khổ thơ thứ 3 lại tiếp tục khái quát từ những ý thơ đã có:

Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Tuy là những câu thơ khái quát, trần trụi như những lời hô gọi, tổng hợp, mà đọc lên lại không kém phần tha thiết. Ngay cả hình ảnh “Đất nước như vì sao, Cứ đi lên phía trước” cũng khá mơ hồ và rất khó cảm nhận, song vẫn được người đọc chấp nhận. Ở đây cảm xúc và nhạc điệu của thơ giữ một vai trò khá trọng yếu.

Khổ thơ thứ 4:

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Vậy ra là hai khổ thơ đầu nhân vật “ta” cũng là con chim hót, cũng là một nhành hoa, một sự hòa nhập, một sự hóa thân tự nguyện, ở đây “ta” là chính nhà thơ và cũng có thể là tất cả mọi người. Sự chuyển đổi của nhân vật trữ tình không hề có sự gượng gạo. Nhịp thơ hào hứng, ý thơ tự nhiên, không một chút lên gân mà lại duyên dáng nữa. “Ta” làm một con chim, “ta” làm một cành hoa, “ta” làm một nốt trầm xao xuyến. “Ta” trở thành người mang lại niềm vui cho cuộc đời một cách khiêm tốn, đáng yêu. Tuy chỉ là một nốt trầm xao xuyến trong dàn hòa ca, song không thể thiếu được vì một dàn hòa ca có giai điệu bổng, tất phải có giai điệu trầm, mà giai điệu trầm dễ xao xuyến hơn.

Ở khổ thơ gần cuối, mùa xuân được chuyển thành mùa xuân của lý tưởng, mùa xuân của tiếng lòng cao cả. Đây là tiếng hát của những con người muốn cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời tất cả những gì mình có, mà không đòi hỏi một sự đền bù. Phải chăng đó là những con người có lí tưởng, có tâm huyết, không kể gì tuổi tác.

Khổ thơ cuối cùng, nhà thơ trở lại với đất Huế thương, vì chính nơi đây nhà thơ đã sống hết mình, đã chiến đấu, cống hiến và khát vọng. Đó là lời ca hết sức đằm thắm, tình nghĩa cất lên tự đáy lòng nhà thơ:

Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Lời thơ hết, nhưng tấm lòng của nhà thơ thì còn lại với xứ Huế thương, với “nước non ngàn dặm tình”, Đó cũng là dư âm của Mùa xuân nho nhỏ còn lại mãi với người đọc.

BÀI LÀM 4

Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ xinh xắn về tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống và khát vọng hiến dâng sức mình làm cho cuộc đời thêm phong phú. Bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980. Nếu biết đây là thời điểm nhà thơ đang ốm nặng, chỉ mấy tuần lễ sau đó, ngày 15 tháng 12 năm 1980, nhà thơ qua đời, thì bài thơ còn đáng quý biết bao. Trước khi đi xa, nhà thơ đã để lại cho đời những lời thơ thật nhân hậu, thiết tha, thanh thản, không hề gợn một nét buồn u ám của cuộc đời sắp tắt. Giữa mùa thu của đời mình, nhà thơ vẫn nghĩ đến mùa xuân bất tuyệt.

Bài thơ có sáu khổ, được chia làm hai phần đều đặn. Ba khổ đầu là mùa xuân của đất trời và đất nước.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ gợi lên một hình ảnh một mùa xuân rất Huế:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Dòng sông xanh và bông hoa tím biếc rất dễ gợi người ta nghĩ đến Huế với dòng sông Hương trong xanh và màu tím Huế rất đẹp. Một tiếng chim vui hót vang trời, long lanh như hạt ngọc:

Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay, tôi hứng

Bài thơ viết vào tháng 11 dương lịch, đúng là tháng 10 âm lịch, vừa thu hoạch, trên cả nước nhiều nơi là vụ mùa đang gặt hái, chim hót vang khắp, cánh đồng. Nhưng bài thơ không hề giản đơn thông báo về sự vật, mà thể hiện niềm cảm xúc yêu đời, niềm vui trước mùa gặt. Nhà thơ như thả hồn theo tiếng chim, lắng nghe từng tiếng hót trong và sáng tới mức long lanh như từng âm thanh đang rơi xuống, cụ thể, hữu tình như có thể đưa tay ra hứng lấy được. Và phải là một tình yêu tha thiết lắm mới đưa tay hứng âm thanh một cách rất thi sĩ!

Cái cảm giác mùa xuân ngập tràn tâm hồn tác giả:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng

Nhà thơ đã nhìn thấy lộc non trên cành lá ngụy trang giắt quanh lưng người chiến sĩ. Ông cũng thấy mùa xuân trên nương mạ trải dài của người nông dân lao động:

Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ

Cái cảm giác mùa xuân đến sớm ấy làm nhà thơ thấy được sự giục giã của đất trời, mà thực sự là sự hối hả của lòng mình:

Tất cả như hôi hả
Tất cả như xôn xao

Cùng trong cảm giác ấy, nhà thơ thấy Tổ quốc mình càng thêm đẹp đẽ và mạnh mẽ trong gian lao, thử thách:

Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước

Những câu thơ năn tiếng gióng giả, giục giã như tiếng ngũ liên lại càng tăng thêm cảm giác hối hả, xôn xao của cuộc đời.

Phần thứ hai viết về mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ, trước sự gợi hứng của mùa xuân cuộc đời. Từ tiếng chim hót và cành hoa của đất trời, ở phần trên, tác giả muốn tiếp nối:

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Lời thơ như đang ngân lên thành lời ca. Đoạn đầu bài thơ, tác giả tự xưng “tôi” kín đáo, lặng lẽ. Đến đoạn này, ông chuyển giọng xưng “ta” bao giờ cũng là cái “tôi” ca hát, vang vọng. Nhưng ông nhận ra tiếng mình trong bản hòa ca chung:

Một nốt trầm xao xuyến

Một nốt trầm, không cao giọng, không ồn ào, không to tát, những xao xuyến, rung động cả tâm hồn.

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Những lời thơ chuyển sang giọng tổng kết cuộc đời nhà thơ mới tham gia cách mạng, bắt đầu công bố những bài thơ đầu: dù là khi tóc bạc, trong thời điểm hiện thời, vẫn lặng lẽ hiến dâng cho đời. Bài thơ này có thể là quà tặng cuối cùng của tác giả.

Khổ thơ cuối cùng, nghe như một lời từ biệt:

Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền xứ Huế

Câu ca Nam bình có câu:

Nước non nghìn dặm
Ra đi
Cái tình chi...

Đó là lời ca từ biệt của người xa quê, xa vời, mối tình sâu thẳm chẳng nói lên lời. Nhà thơ Thanh Hải xin hát câu Nam ai, Nam bình, nhưng khác lời ca buồn ngày xưa, lời ca của ông thật thân tình, ấm áp: “Nước non ngàn dặm mình" - chữ “mình” mới ấm áp làm sao! Là ngàn dặm vẫn là “mình”, vẫn là “tình”, đi đâu vẫn không ra ngoài hai chữ “mình” và “tình” ấy. Nhịp phách tiền xứ Huế có gắn thêm cọc tiền đồng nghe càng thêm giòn giã, vang xa. Có thể nói nhà thơ hát khúc ca để đi vào cõi vĩnh viễn.

Bài thơ thật vui và thật giản dị. Từ cảm nhận được mùa xuân đất nước, tác giả muốn hiến dâng mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vô tận. Một bài thơ yêu đời, trong trẻo rất mực và cũng da diết rất mực.

Bài thơ hay không chỉ hay về ý và từ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ năm tiếng ngắt nhịp 3/2 xen 2/3 linh hoạt. Nó không đều đặn 3/2 như hát giặm, cũng không đều đặn 2/3 như thơ năm tiếng cổ điển, mà tạo một nhịp tung tẩy, nhí nhảnh, chẳng hạn:

Mọc giữa / dòng sông xanh
Một bông hoa / tím biếc
Ơi / con chim chiền chiên
Hót chi / mà vang trời
Từng giọt / long lanh rơi
Tôi đưa tay / tôi hứng

Không chỉ ngắt nhịp đa dạng, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giả, như thể nhịp phách tiền. Đó là câu cuối các khổ thơ thứ nhất, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu:

- Tôi đưa tay tôi hứng

- Cứ đi lên phía trước

- Một nốt trầm xao xuyến

- Dù là khi tóc bạc

- Nhịp phách tiền đất Huế

Để thử hiệu quả của vần trắc cuối khổ thơ, ta hãy thử sắp xếp lại khổ thơ thứ nhất cho vần bằng ở cuối khổ thơ, thì tuy ý tứ không thay đổi lắm, song nhạc điệu gióng giả đã mất hết:

Một bông hoa tím biếc
Mọc giữa dòng sông xanh
Ơi! Con chim chiền chiên
Hót chi mà vang trời
Tôi đưa tay tôi hứng
Từng giọt long lanh rơi

Thử như vậy để thấy nhà thơ đà có sự lựa chọn, sắp xếp công phu nhằm tạo nhạc điệu độc đáo cho bài thơ.

Bài thơ có nhịp đi hành khúc. Mùa xuân nho nhỏ đúng là hành khúc mùa xuân, đặc biệt là hành khúc mùa xuân ở cuối mùa thu của một đời người muốn hòa nhập vào mùa xuân bất tận của Tổ quốc.

LUYỆN TẬP

1. Viết đoạn văn ngắn để liên kết các nội dung của chủ đề tư tưởng xuân nho nhỏ của Thanh Hải.

- Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước trong lao động, chiến dấu.

- Đất nước vất vả gian lao vẫn “đi lên phía trước”.

- Ước nguyện dâng hiến cho đời một Mùa xuân nho nhỏ.

2. Khung cảnh xuân và cảm xúc say mê hào hứng của nhà thơ khi biểu hiện thế nào ở khổ đầu?

3. Phân tích những điều tâm niệm chân thành vào cao cả của nhà thơ.

4. Tại sao Thanh Hải lại đặt tên cho bài thơ của mình là “Mùa xuân nho nhỏ” trong khi bài thơ có ba khổ thơ nói về mùa xuân đất trời, đất nước rất lớn lao? Trong sự cảm nhận của em, mùa xuân nho nhỏ ấy là gì? Hãy phân tích bài thơ đặc biệt là ba khổ cuối để làm rõ nhận định đó.

5. Chọn một khổ thơ mà em thích trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Chỉ ra những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Nêu những cảm nhận của em về vẻ đẹp của thiên nhiên, của ước vọng và hãy suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống của mình.

6.
Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
                    (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)

Hãy viết không quá 10 câu văn phát biểu sự cảm nhận của em về những nét đặc sắc của đoạn thơ đó.

7. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các phép tu từ trong đoạn thơ sau:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao...
... Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
                (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)

8. Sách Bồi dưỡng Ngữ văn 9 (Nhà xuất bản Giáo dục, 2005) có viết: "Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời."

Hãy phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải (Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập hai — Nhà xuất bản Giáo dục, 2005) để làm sáng tỏ nhận xét trên.

9. Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải có câu:

"Ta làm con chim hót"
...

a. Chép chính xác 7 câu nối tiếp câu thơ trên.

b. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Hoàn cảnh đó có ý nghĩa như thế nào trong việc bày tỏ cảm xúc của nhà thơ?

c. Ở phần đầu của bài thơ, tác giả dùng đại từ "Tôi", nhưng ở đoạn thơ vừa chép lại sử dụng đại từ "Ta". Vì sao vậy?

d. Mở đầu đoạn văn phân tích 8 câu thơ trên, một học sinh viết: "Từ xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước, Thanh Hải đã bày tỏ khát vọng mãnh liệt muốn dâng hiến cho cuộc đời."

Coi đây là câu mở đoạn, hãy hoàn chỉnh đoạn vặn bằng cách viết tiếp phần thân đoạn có độ dài khoảng 10 câu, trong đó có lời dẫn trực tiếp và kết đoạn là một câu hỏi tu từ.

Các bài học liên quan
Dựa vào nội dung truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, hãy đóng vai một nhân vật để kể lại câu chuyện.
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
Phân tích truyện Làng của Kim Lân.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật