Hãy trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng và nêu nhận xét nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du

Trong kho tàng văn học cổ Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất nhất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhân đạo cao cả, mà còn vì các nhân vật trong truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẽ, sinh động. Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng.

 

BÀI LÀM

Câu 1: Hãy trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng và nêu nhận xét nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du.

Trong kho tàng văn học cổ Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm kiệt xuất nhất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhân đạo cao cả, mà còn vì các nhân vật trong truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẽ, sinh động. Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng.

Ngay phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung xinh đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân rất thành công. Đầu tiên tác giả giới thiệu chung về cả hai chị em:

Đầu lòng hai ả tố nga
Thủy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Nói đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao, nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng, tinh sạch. Cả mai và tuyết đều rất đẹp. Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng của hai chị em như là mai, là tuyết. Tiếp đó tác giả giới thiệu về vẻ đẹp của Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, lông mày cong hình cánh cung như mày ngài.
Miệng cười của nàng như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc. Lại nửa mái tóc nàng đen dài đến nỗi mây cũng phải chịu thua, làn da trắng mịn đến tuyết cũng phải nhường. Thật là một vẻ đẹp đoan trang phúc hậu ít ai có được. Nguyễn Du đã miêu tả bức chân dung nàng Thúy Vân có thể nói là tuyệt đẹp. Đọc đoạn này ta thấy rung động trước vẻ đẹp tuyệt vời của Thúy Vân và thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du. Ông đã vận dụng biện pháp tu từ ước lệ của văn thơ cổ vừa đúng đắn, vừa sáng tạo.

Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân đã khiến ta rung động đến vậy, ông miêu tả Thúy Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa. Bất ngờ đến kinh ngạc. Bắt đầu từ câu:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Nàng Vân đã tuyệt diệu như vậy rồi, nàng Kiều lại còn đẹp hơn nữa ư? Có thể như vậy được không? Ta hãy xem ngòi bút Nguyễn Du viết về nàng Kiều:

Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Đến đây, chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục. Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều không dài, chỉ vài câu thôi, vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu nữ “tuyệt thế giai nhân”, Mắt nàng thăm thẳm như làn nước mùa thu, lông mày uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân, dung nhan đằm thắm đến hoa cũng phải ghen, dáng người xinh tươi mơn mởn đến mức khiến liễu cũng phải hờn. Khi đọc đoạn thơ này ta không chỉ thấy rung động, thán phục, mà còn có một cảm giác xốn xang, khó tả bởi nàng Kiều xinh đẹp quá. Thủ pháp ước lệ, nhân hóa là biện pháp tu từ phổ biến trong văn học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc, kết hợp với cách dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”, tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận, mà như thấy tận mắt nàng Kiều. Nàng quả là có một vẻ “sắc sảo mặn mà” ta có thể nói là “có một không hai” làm mê đắm lòng người. Đọc hết những câu trên ta mới hiểu được dụng ý của Nguyễn Du khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thúy Vân trước vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thúy Kiều. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy, dùng vẻ đẹp của Thúy Vân để làm tôn nghiêm vẻ đẹp yêu kiều, quyến rũ của Thúy Kiều rất có hiệu quả.

Sắc đã như vậy, còn tài của nàng Kiều thì sao? Ta sẽ không cảm nhận được hết toàn bộ vẻ đẹp hình thể cũng như vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều nếu như ta không biết đến tài của nàng, mặc dù Nguyễn Du đã nói “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, vẻ sắc thì chắc chắn là chỉ có mình nàng là đẹp như vậy, về tài thì họa không có người thứ hai sánh kịp:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương láu bậc ngữ âm
Nghỉ riêng ăn đứt Hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

Nàng có tài thơ, tài họa, tài đàn. Tài nào cũng xuất sắc, cùng thành “nghề” cả. Riêng tài đàn, nàng còn sáng tác cả một bản nhạc mang tiêu đề “Bạc mệnh” rất cuốn hút lòng người.

Với hai nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân, Nguyễn Du đã sử dụng các biện pháp tu từ phổ biến trong thơ cổ như ước lệ, ẩn dụ, nhân hóa, dùng điển cố. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thúy Vân và vẻ đẹp
“Sắc sảo mặn mà” của Thúy Kiều. Hai bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân mà Nguyễn Du khắc họa phải nói là rất thành công. Đặc biệt là Thúy Kiều, nhà thơ đã dành toàn bộ tâm huyết, sức lực và tài năng để sáng tạo nên nàng, bởi nàng là nhân vật chính của Truyện Kiều, nàng là nhân vật mà Nguyễn Du gửi gắm nhiều tâm sự của mình.

Nhân vật thứ ba mà ta nói đến ở đây là nhân vật Kim Trọng. Kim Trọng xuất hiện trong Truyện Kiều với mối tình đầu tiên của Thúy Kiều/ cô gái họ Vương đa tình, đa cảm. Nhân vật Kim Trọng cũng là nhân vật được Nguyễn Du ưu ái. Bức chân dung nhà thơ miêu tả Kim Trọng có những nét đặc sắc và độc đáo riêng. Qua hình ảnh Kim Trọng, ta thấy có những nét vừa quen thuộc, vừa mới lạ.

Kim Trọng gặp chị em Thúy Kiều bên mộ Đạm Tiên, khi ba chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan đi tảo mộ nhân ngày Tết Thanh minh. Phong cảnh bên mộ Đạm Tiên quả là tuyệt đẹp:

Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Lúc đó, chàng Kim xuất hiện thật bất ngờ:

Dùng dàng nứa ở nứa về
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

Tiếng nhạc vàng lanh lảnh như xua đi âm khí nặng nề bên nấm mồ vô chủ làm không khí như bừng sáng hẳn lên. Chàng Kim Trọng hiện ra trong dáng hình một thư sinh phong kiến:

Trông chừng thấy một văn nhân
Lòng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau chân theo một vài thằng con con.

Nói bức chân dung Kim Trọng có vẻ quen chính là ở chỗ này. Dưới thời phong kiến đã nói đến “thư sinh” thì phải có “tuấn mã”, "tiểu đồng”, phải “lưng túi gió trăng”. Những nét quen đó không làm ta nhàm chán khiến ta thấy được phong thái hào hoa, trang nhã của Kim Trọng. Điều đó càng thể hiện rõ hơn ở câu tiếp:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Với biện pháp hoán dụ, câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được vẻ khôi ngô, tuấn tú của chàng Kim qua vẻ đẹp của con ngựa trắng và màu áo xanh. Không những thế, chàng Kim còn là một chàng trai rất lịch sự:

Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.

Hành động của chàng khác thói thường của các bậc nam nhi phong kiến nhưng đồng điệu với cô gái họ Vương đa tình đa cảm. Vẻ đẹp của chàng làm bừng sáng cả một vùng:

Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thế cây quỳnh cành dao.

Thật lạ, quả thật ta chưa thấy một trang nam nhi nào lạ đến thế. Lạ từ vẻ đẹp trang nhã, hào hoa đến thái độ hào hiệp lịch sự. Đã như vậy, Chàng Kim lại có gia cảnh thật cao quý:

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh
Nền phúc hậu, bậc tài danh
Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Đã đẹp đẽ, chàng Kim Trọng lại là con một gia đình thế phiệt trong vùng, bản thân chàng cũng theo đời nghiệp văn chương, bản tính chàng thông minh vốn sẵn. Đó chắc chắn là một mẫu người lý tưởng của các trang nam nhi phong kiến, chàng lọt mắt xanh và chiếm vị trí mối tình đầu của Thúy Kiều là điều hợp lý.

Tác giả Nguyễn Du đã dành cho Kim Trọng những tình cảm ưu ái nhất cũng như ông đã dành cho Thúy Kiều. Họ là cặp nhân vật “xứng đôi vừa lứa” mà ông gửi gắm nhiều tình cảm.

Khác với Thúy Kiều và Thúy Vân, Nguyễn Du đã dành sẵn một phần để giới thiệu thì đối với Kim Trọng, ông lại giới thiệu chàng trong bối cảnh gặp gỡ với chị em Thúy Kiều. Đó là hoàn cảnh hợp lý khiến ta thấy chân dung Kim Trọng không chỉ khôi ngô tuấn tú mà còn là người phát ngôn của tình yêu muôn thuở. Đến với nhân vật Kim Trọng, cảm nhận được vẻ đẹp của chàng ta thêm khâm phục tài năng của Nguyễn Du với bút pháp tả người rất sắc sảo tài tình.

Như đã nói, Truyện Kiều thu hút người đọc một phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Quả vậy, nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bậc thầy trong nền văn học cổ Việt Nam. Tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm toát lên cái nhìn tính cách, tâm hồn bên trong của nhân vật đó.

Với Thúy Vân, ông đã thực hiện phép ước lệ miêu tả vẻ đẹp:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Tất cả từ ngữ, các hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ trên đều tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “đoan trang thùy mị” của Thúy Vân. Ông cũng như dự báo số phận bình lặng, êm ả của nàng qua từ “thua”, từ “nhường”. Mây và tuyết thua vẻ đẹp của Thúy Vân nhưng cả hai đều chịu “thua” chịu “nhường” một cách êm ả.

Với Thúy Kiều, tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của nàng. Những câu thơ miêu tả nàng có thể gọi là tuyệt bút:

Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Nhưng Nguyễn Du như đã dự báo số phận bấp bênh chìm nổi của Kiều qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không chịu mà còn “ghen” còn “hờn” và khúc nhạc “Bạc mệnh” nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó.

Với Kim Trọng, Nguyễn Du miêu tả chàng có một phong thái thanh cao, trang nhã, tuấn tú, lịch sự, hào hoa. Ông cũng dành cho chàng những câu thơ tuyệt vời:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
...
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thế cây quỳnh cành dao.

Khác Kim Trọng, Từ Hải được Nguyền Du miêu tả như một anh hùng cái thế. Từ vẻ mặt, dáng người hùng dùng cao lớn:

Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

đến tài và chí hướng:

Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời

Còn với Mã Giám Sinh, tác giả miêu tả bản chất bẩn thỉu của hắn qua từ ngữ tả thực rất đắc như “ngồi tót”, “cò kè” với các câu thơ:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Nhân vật Tú Bà cùng “đồng môn” với Mã Giám Sinh thì lộ rõ vẻ mánh lới xảo quyệt, độc ác và tham lam qua nhiều câu thơ, điển hình như:

Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi to béo đẫy đà làm sao!

Nói tóm lại, Nguyễn Du có nghệ thuật tả người rất đặc sắc và tiêu biểu. Mỗi nhân vật ông miêu tả dù tốt hay xấu, dù chính diện hay phản diện cũng đều biểu hiện được bản chất tâm hồn bên trong qua hình dáng bên ngoài. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du rất đáng được chúng ta trân trọng và học tập.

 

Câu 2: 

Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người”.
                                          (Tố Hữu - Việt Bắc)

Em hãy phân tích biện pháp tu từ trong đoạn thơ trên.

 

BÀI LÀM

Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suôi reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người.
                                                 (Tố Hữu - Việt Bắc)

Trong đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng các biện pháp tu từ sau:

Biện pháp nhân hóa: “Người đi rừng núi trông theo bóng Người”. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ này để nói lên tấm lòng yêu mến của nhân dân Việt Bắc đối với Bác Hồ. Rừng núi ở đây không chỉ là rừng núi thiên nhiên Việt Bắc, mà còn là đồng bào Việt Bắc. Rừng núi tượng trưng cho người dân Việt Bắc.

Tác giả còn dùng điệp từ “nhớ” ở câu thứ nhất và thứ ba để nói rõ hơn tấm lòng nhớ mong đối với Bác.

Các bài học liên quan
Em hãy thuật lại (kể lại) chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 tết đến ngày mùng năm tháng giêng.
Hãy phân tích đoạn thơ sau:  “Bỗng nhận ra hương ổi... Vắt nửa mình sang thu” (Hữu Thỉnh - Sang thu)
Giới thiệu về một món ăn.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật