Bài số 122: Thái độ với sách và việc đọc sách (Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm)

Chu Quang Tiềm đã nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa của sách đối với đời sống con người. Hơn thế, từ đó, ông đã chỉ ra những điều hết sức cơ bản có thể xem là cẩm nang của cách thức đọc sách. Bài luận Bàn về đọc sách sẽ thuyết phục chúng ta về những điều này.

BÀI LÀM

Không phải khi công nghệ thông tin phát triển như vũ bão thì việc đọc sách không được quan tâm nữa. Thậm chí ngược lại, sách có tầm quan trọng không thể thay thế. Phải có người đọc sách thì sách mới có thể ấn hành nhiều đến thế. Thị hiếu là gì nên không phải là cái bắt đầu từ những nhu cầu thiết yếu nổi trội của con người! Chu Quang Tiềm đã nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa của sách đối với đời sống con người. Hơn thế, từ đó, ông đã chỉ ra những điều hết sức cơ bản có thể xem là cẩm nang của cách thức đọc sách. Bài luận Bàn về đọc sách sẽ thuyết phục chúng ta về những điều này.

Từ việc khẳng định ý nghĩa của sách và việc đọc sách đến cách chọn sách mà đọc sách đọc sách cho có hiệu quả cao nhất, đó là mạch lập luận của Bàn về đọc sách. Nhưng nếu chỉ là như thế thì bài viết chưa thể đạt được sức thuyết phục cao. Triển khai mạch lập luận này, trong từng phần, tác giả đã đưa ra được hệ thống những lí lẽ và dẫn chứng chân xác, sinh động để thuyết phục luận điểm.

Ở phần đầu của văn bản (từ "Học vấn không chỉ là..." cho đến " .. nhằm phát hiện thế giới mới"), tác giả phân tích tầm quan trọng của sách và việc đọc sách. Trước hết, Chu Quang Tiềm chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa sách và học vấn. về điểm này, tác giả viết: "Mỗi loại học vấn đến giai đoạn hôm nay đều là thành quả của toàn nhân loại nhờ biết phân công, cố gắng tích lũy ngày đêm mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách vở ghi chép, lưu truyền lại". Từ đó đi đến khẳng định: "Sách là kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại (...), là những cột mốc trên con đường tiến hóa học thuật...". Khẳng định điều này để dẫn tới khẳng định điều Sau đó như một hệ quả tất yếu. Đó là muốn "tiến lên" thì nhất thiết "phải lấy thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát". Có như thế mới tránh được tình trạng "lạc hậu", tụt hậu.

Làm rõ tầm quan trọng của sách đối với nhận thức của con người thực chất là hướng tới làm nổi bật việc cần thiết phải đọc sách. Vai trò của sách xem như là luận cứ để dẫn tới luận điểm rằng: "Đọc sách là muốn trả món nợ đối với thành quả nhân loại trong quá khứ, là ôn lại kinh nghiệm, tư tưởng của nhân loại tích lũy mấy nghìn năm trong mấy chục năm ngắn ngủi, là một mình hưởng thụ các kiến thức, lời dạy mà biết bao người trong quá khứ đã khổ công tìm kiếm mới thu nhận được". Nhờ đó "mới có thể làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn, nhằm phát hiện thế giới mới". Đến đây, một vấn đề nảy sinh: vì sách là nơi kết tinh, hội tụ những kiến thức của nhân loại trong suốt mấy nghìn năm, văn hóa nhân loại tiến hóa không ngừng, mở mang không ngừng cho nên để xử lí được khối lượng đồ sộ và cực kì đa dạng của kho tri thức ấy là một vấn đề khó khăn, không thể thực hiện “cuộc trường chinh vạn dặm" ấy, không thể đọc sách mà không có những con đường đi, phương hướng đúng đắn.

Tác giả đã sắp xếp khéo léo để các vấn đề được đặt ra, triển khai lôgic chặt chẽ với nhau. Hướng tới giải quyết vấn đề đặt ra như một nhu cầu ở trên, đầu phần hai của bài viết, tác giả dừng lại phân tích thực trạng việc đọc sách. Nội dung này thể hiện ở đoạn từ "Lịch sử càng tiến lên..." cho đến "tự tiêu hao lực lượng". Bằng những hiểu biết thực tế, tác giả chỉ ra "hai cái hại thường gặp" của việc đọc sách. Cái hại thứ nhất là "sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu". Để thuyết phục điều này, tác giả dẫn ra kinh nghiệm đọc sách của các học giả Trung Hoa cổ đại: “Sách tuy đọc được ít, nhưng đọc quyển nào ra quyển ấy, miệng đọc, tâm ghi, nghiền ngẫm đến thuộc lòng, thấm vào xương tủy, biến thành một nguồn động lực tinh thần, cả đời dùng mãi không cạn”. Đối lập với thực tế ngày nay, sách tuy nhiều, dễ kiếm nhưng "không tiêu hóa được", dẫn tới thói "hư danh nông cạn". Cái hại thứ hai là "sách nhiều dễ khiến người đọc lạc hướng", Tác giả vì việc đọc sách cũng như đánh trận: "cần phải đánh vào thành trì kiên cố, đánh bại quân địch tinh nhuệ, chiếm cứ mặt trận xung yếu". Những trở ngại căn bản nhất của việc học nói chung, đọc sách nói riêng đã được tác giả khái quát chính xác.

Phần còn lại của bài viết, tác giả dành sự quan tâm đến việc đưa ra những cách thức đọc sách đúng đắn, giúp người đọc sách khắc phục được những trở ngại, tiến tới xác định cho mình được phương pháp học tập, nghiên cứu đúng đắn, đạt hiệu quả đích thực. Đây là vế quan trọng trong lập luận của bài văn. Có thể tóm lược các luận điểm chính của phần này như sau:

Một là, "phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ".

Hai là, phải biết phân loại thành sách thường thức và sách chuyên môn để có cách đọc cho phù hợp;

Ba là, phải chú ý tới mối quan hệ hữu cơ giữa cái thường thức và cái chuyên sâu.

Ba luận điểm trên được tổ chức triển khai theo hướng tổng - phân hợp. Thế nào là đọc tinh, đọc kĩ? Vấn đề tưởng là hai mà thực chất là một. Không thể đọc kĩ tất cả mà phải chọn cuốn thật sự có giá trị. Chọn được cuốn có giá trị mà đọc kĩ còn hơn là đọc nhiều cuốn mà chỉ lướt qua. về điểm này, tác giả diễn đạt thật hấp dẫn, sắc sảo: "Đọc ít mà đọc kĩ, thì sẽ tập thành nếp suy nghĩ sâu xa, trầm ngâm tích lũy, tưởng tượng tự do đến mức làm đổi thay khí chất; đọc nhiều mà không chịu nghĩ sâu, như cưỡi ngựa qua chợ, tuy châu báu phơi đầy, chỉ tổ làm cho mắt hoa ý loạn, tay không mà về". Nhưng lựa chọn thế nào để đọc cho kĩ? Trả lời câu hỏi này, tác giả xác lập luận điểm thứ hai của phương pháp đọc: phải phân biệt sách thường thức và sách chuyên môn. Sách chuyên môn thì phải đọc kĩ, điều này đã được làm rõ ở luận điểm trước, vấn đề là làm sao để vừa đọc kĩ mà vẫn đảm bảo sự toàn diện? Tác giả viết: "... mỗi môn phải chọn lấy từ 3 đến 5 quyển xem cho kĩ. Môn học kiến thức phổ thông tổng số không quá mười mấy môn, (...), tổng cộng số sách cần đọc cũng chẳng qua trên dưới 50 quyển".

Ở phần cuối bài viết, tác giả lập luận về việc phải biết kết hợp giữa đọc sâu và đọc rộng. Những điều tác giả bàn đến trong đoạn kết bài không chỉ là phương pháp đọc sách, mà còn là quan điểm nhận thức nói chung. Một mặt, phải thừa nhận sự chuyên sâu là cần thiết. Nhưng chuyên sâu không có nghĩa là cô lập, đóng kín; bởi vì: "Trên đời không có học vấn nào là cô lập, tách rời các học vấn khác". Bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ với lối diễn đạt bằng hình ảnh ví von, so sánh, tác giả đã thuyết phục người đọc hết từ luận điểm này đến luận điểm khác. Từ cách chọn sách, đọc sách, tác giả nâng lên thành quan điểm nhận thức, từ phương hướng nhận thức mà đúc kết thành cách học, cách chiếm lĩnh tri thức nói chung: "không biết rộng thì không thể chuyển, không thông thái thì không thể nắm gọn. Trước hãy biết rộng rồi sau mới nắm chắc, đó là trình tự để nắm vững bất cứ học vấn nào".

Với lập luận chặt chẽ, biến hóa tự nhiên, uyển chuyển; lí lẽ sắc sảo, lôgic; dẫn chứng sinh động, chân thực; ngôn ngữ diễn đạt hấp dẫn, Chu Quang Tiềm đã chứng tỏ tài nghị luận bậc thầy của mình. Qua bài văn này, chúng ta không chỉ hiểu sâu sắc thêm về vai trò của học vấn, vai trò của sách đối với nhận thức mà quan trọng hơn là có thể tìm thấy cách đọc, cách học đúng đắn.

Các bài học liên quan
Bài số 117: Cảm nhận khi đọc Cố hương của Lỗ Tấn.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật