Bài số 123: Hành trang của con người và tuổi trẻ Việt Nam khi bước vào thế kỉ XXI (Đọc Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Vũ Khoan)
Thời điểm chuyển từ thế kỉ XX sang thế kỉ XXI là một điểm mốc quan trọng trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với đất nước đang trên chặng đường hội nhập và phát triển như Việt Nam thì đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định, đặt ra trước mắt cả những cơ hội và thách thức lớn.
- Bài học cùng chủ đề:
- Bài số 122: Thái độ với sách và việc đọc sách (Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm).
- Bài số 121: Trẻ em cần những gì? Câu trả lời từ Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em.
- Bài số 120: Thế giới cần hòa bình - lời kêu gọi chống chiến tranh hạt nhân qua văn bản Đấu tranh cho một thế giới hòa bình của G.G.Mác-két.
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
Thời điểm chuyển từ thế kỉ XX sang thế kỉ XXI là một điểm mốc quan trọng trong lịch sử nhân loại. Riêng đối với đất nước đang trên chặng đường hội nhập và phát triển như Việt Nam thì đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định, đặt ra trước mắt cả những cơ hội và thách thức lớn. Để có thể tự vượt lên chính mình, từng bước hội nhập vào nền kinh tế tri thức trong thế kỉ tới, Đảng và Nhà nước ta đã có những chiến lược cụ thể: về mọi mặt. Nhưng để làm được việc đó, trước hết phải có sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc về những cái mạnh, cái yếu trong nội lực. Bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho chúng ta thấy rõ điều này.
Tác giả viết bài văn này vào đầu năm 2001, khi đất nước ta cùng toàn thế giới bước vào năm đầu tiên của thế kỷ mới. Đây là thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ, hai thiên niên kỷ. ở nước ta, công cuộc đổi mới bắt đầu từ cuối thế kỷ trước đã thu được những thành quả nhất định, chúng ta bước sang thế kỷ mới với những mục tiêu vô cùng quan trọng, đó là tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, kết hợp với những truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời để đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể xác định lại dàn ý của bài viết như sau:
Bài viết nêu ra bốn ý lớn, mỗi ý lại được cụ thể hóa bằng một hệ thống luận cứ, dẫn chứng khá sinh động:
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con người.
- Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước.
Những cái mạnh, cái yếu của người Việt Nam cần được nhận thức rõ trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
Trong bài viết này, tác giả đã nêu ra một vấn đề hệ trọng: chúng ta cần nhận thức như thế nào và làm những việc gì để chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới? Vấn đề ấy không chỉ có ý nghĩa thời sự mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với cả quá trình đi lên của đất nước bởi vì để đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà lịch sử và dân tộc đã giao phó, con người Việt Nam nói chung và lớp trẻ Việt Nam nói riêng không thể không nhận thức rõ những mặt mạnh cũng như những điểm còn hạn chế của mình để vừa phát huy những mặt tích cực, đồng thời khắc phục, sửa chữa những mặt còn yếu kém, không ngừng hoàn thiện mình, xứng đáng là chủ nhân của đất nước. Cụ thể là:
a. Trong hành trang vào thế kỷ mới, sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất, bởi vì:
- Con người bao giờ cũng là động lực phát triển của lịch sử.
- Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, con người lại càng có vai trò nổi bật.
b: Bối cảnh thế giới và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước:
- Trong sự phát triển chung của thế giới, khi khoa học, kỹ thuật có tốc độ phát triển vô cùng mạnh mẽ, sự giao thoa, hội nhập ngày càng sâu rộng giữa các nền kinh tế.
- Nước ta đang đứng trước những nhiệm vụ vô cùng trọng đại, đó là đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng thời nhanh chóng tiếp cận với nền kinh tế tri thức.
c. Những cái mạnh, cái yếu của người Việt Nam cần được nhận thức rõ trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
Tác giả đã không làm một phép liệt kê giản đơn từ ưu điểm đến nhược điểm mà cứ mỗi khi nêu một ưu điểm, tác giả lại đề cập đến một nhược điểm. Điều đáng chú ý là những ưu điểm và nhược điểm đó luôn được đặt trong yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Cụ thể:
- Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng lại thiếu kiến thức cơ bản, khả năng thực hành.
- Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ lao động khẩn trương.
Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau nhưng đồng thời lại cũng thường đố kị nhau trong công việc.
- Bản tính thích ứng nhanh nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen, nếp nghĩ, quen bao cấp, rất sùng ngoại nhưng có khi lại bài ngoại đến mức cực đoan, khôn vặt, ít giữ chữ "tín”.
Bài viết này đã mang đến cho bạn đọc cảm giác rất bất ngờ. Tác giả không ca ngợi một chiều, cũng không chỉ toàn phê phán một cách cực đoan mà nhìn nhận song song, đối chiếu và đánh giá những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của người Việt Nam trong quan hệ với công việc, trong yêu cầu của sự phát triển xã hội. Đó là sự đánh giá rất khách quan và khoa học, xuất phát từ thiện chí của tác giả muốn để chúng ta nhìn nhận về mình một cách đúng đắn, chân thực, ý thức được những mặt tốt cũng như mặt chưa tốt của mình để phát huy hoặc sửa đổi.
Trong văn bản, tác giả đã sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ: "nước đến chân mới nhảy", "trâu buộc ghét trâu ăn", "liệu cơm gắp mắm", "bóc ngắn cắn dài"... Việc sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian như vậy khiến cho bài viết thêm phần sinh động cụ thể, giàu ý nghĩa.
Mặc dù đây là bài nghị luận mang tính xã hội học nhưng tác giả đã cho chúng ta thấy một lối viết không hề khô cứng nhờ vào khả năng diễn đạt trong sáng, giản dị, khả năng vận dụng linh hoạt các thành ngữ, tục ngữ. Việc sử đúng chính những thành ngữ, tục ngữ của người Việt Nam để phân tích những cái mạnh, cái yếu của người Việt Nam đã giúp tác giả khái quát được những vấn đề mang tính cố hữu trong ý thức văn hoá của dân tộc, khiến nguồn ngữ nghị luận giàu hình ảnh, lột tả được thực tế. Nói đến nghệ thuật lập luận của bài viết này cũng phải nói đến việc dẫn ra những dẫn chứng cụ thể mà sâu sắc qua sự đối sánh với người Nhật, thao tác này vừa có ý nghĩa trong nhãn quan khoa học vừa có tác dụng kích thích tinh thần học hỏi, tự tôn trong tâm lí người Việt Nam.
Bài viết Hành trang chuẩn bị vào thế kỉ mới thực sự trở thành hành trang trong nhận thức của con người Việt Nam nếu muốn hội nhập với kinh tế thế giới.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9