NHỚ RỪNG - Thế Lữ

Bài thơ Nhớ rừng được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập Mấy vần thơ xuất bản năm 1935. Bài thơ mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú để thể hiện ý chí căm hờn, u uất và niềm khát khao tự do mãnh liệt của tác giả cũng như những người bị giam cầm, bị nô lệ.

I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG

Thế Lữ (1907 - 1989) tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh ra ở vùng Kinh Bắc, là nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945) buổi đầu. Với hồn thơ dạt dào, lãng mạn, Thế Lữ góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho Thơ mới. Ngoài sáng tác thơ, Thế Lữ còn viết truyện. Sau đó, ông chuyển sang hoạt động sân khấu và trở thành một trong những người có công đầu xây dựng ngành kịch nói ở nước ta.

Bài thơ Nhớ rừng được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập Mấy vần thơ xuất bản năm 1935. Bài thơ mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú để thể hiện ý chí căm hờn, u uất và niềm khát khao tự do mãnh liệt của tác giả cũng như những người bị giam cầm, bị nô lệ.

Tâm trạng của con hổ cũng chính là tâm trạng của tác giả, tâm trạng của một lớp người trong xã hội lúc bấy giờ. Họ cảm thấy bế tắc trước cuộc sống, chán chường với thực tại, khao khát với cuộc đời tự do, phóng khoáng mặc dầu chưa được định hướng rõ ràng. Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, giả dối, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn.

Chính vì vậy bài thơ vừa ra đời đã được công chúng đón nhận một cách say sưa. Lời con hổ trong bài thơ đã nói lên chính nỗi lòng của họ.

Cái mới của bài thơ là lối diễn tả tạo nên hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Việc sử dụng ngôn ngữ biến hóa, tạo nên chất nhạc đa tình, thành vần thơ du dương. Thơ và nhạc hòa quyện vào nhau cuốn hút làm say mê tâm hồn người đọc.

II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)

Câu 1. Bài thơ có thể chia làm 5 đoạn, nội dung mỗi đoạn như sau:

Đoạn 1: Tâm trạng con hổ trong cảnh ngộ bị tù hãm ở vườn bách thú.

Đoạn 2: Miêu tả cảnh sơn lâm hùng vĩ qua hồi tưởng của con hổ: cảnh chúa sơn lâm ngự trị trong vương quốc của nó.

Đoạn 3: Bốn cảnh, đủ cả sông suối, núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chúa tể. Có thể coi như một bộ tứ bình đẹp lộng lẫy.

Đoạn 4: Cảnh vườn bách thú hiện ra dưới cái nhìn của chúa sơn lâm thật đáng chán, đáng khinh, đáng ghét. Tất cả chỉ là sự đơn điệu, nhàm chán.

Đoạn 5: Sự nuối tiếc của con hổ về cuộc sống và cảnh sống thuở xưa. Sau nỗi nhớ một thuở vàng son oanh liệt, chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng trở về với thực tại trong cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng!

Câu 2.

a. Phân tích từng cảnh tượng được miêu tả trong bài thơ:

a1. Cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt:

Dưới cái nhìn của “chúa sơn lâm”, cảnh vườn bách thú hiện ra:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng làm sao có thể sánh được với thế giới tự nhiên của cây cao, bóng cả.

- Căm uất ngao ngán nhưng không có cách nào để về lại chốn sơn lâm, đành buông xuôi bất lực nằm dài trông ngày tháng dần qua.

- Hoàn cảnh hiện tại của nó thì từ chỗ là chúa tể của muôn loài đang tung hoành chốn thảo hoa, nước non hùng vĩ, nay bị nhốt chặt trong cũi sắt làm đồ chơi cho con người, chịu để con người sắp đặt ngang với bọn gấu dở hơivới cặp báo vô tư lự.

- Thái độ ngao ngán, chán ghét, khinh thị đối với vườn bách thú của con hổ cũng chính là thái độ của con người thuở đó dõi với xã hội.

- Cảnh vườn bách thú tầm thường giả dối và tù túng dưới mắt con hổ đó chính là cái thực tại của xã hội đương thời được cảm nhận bằng một tâm hồn lãng mạn.

Mặc dù thân xác đang bị nhốt trong cũi sắt nhưng tâm hồn con hổ vẫn luôn nhớ về chốn sơn lâm. Do vậy, vườn bách thú với những cảnh tượng giả dối chỉ là nơi thật tầm thường đối với nó.

a2. Hình ảnh con hổ và cảnh sơn lâm hùng vĩ:

- Cảnh núi rừng đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, phi thường:

bóng cả, cây già, tiếng gió gào...

giọng nguồn hét núi.

+ thét khúc trường ca dữ dội.

đường hoàng, lượn tấm thân;

sóng cuộn nhịp nhàng, vờn bóng âm thầm.

- Trong một bức tranh tổng thể về thiên nhiên, trên cái phông nền của núi rừng hùng vĩ, hình ảnh con hổ hiện ra với một vẻ đẹp oai phong, lầm liệt. Khi rừng thiêng tấu lên khúc trường ca dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên với tư thế dõng dạc, đường hoàng:

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc...

b. Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh và giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3:

Đây là đoạn hay nhất của bài thơ.

Tác giả đã sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn này rất linh hoạt, sinh động, phong phú. Những câu thơ rất gợi hình, gợi cảm, đã diễn tả chính xác vẻ đẹp vừa uy nghĩ, vừa dũng mãnh lại mềm mại, uyển chuyển của,chúa sơn lâm.

Đoạn thơ thứ ba được cấu tạo bởi câu hỏi, với bốn từ Nào đâu, đâu đặt ở đầu câu và 4 từ ta, để ta đan xen. Đó là những câu hỏi không đợi trả lời mà để than tiếc và khẳng định quyền lực về biển của mãnh hổ, địa vị chúa tể muôn loài thời oanh liệt giữa chốn; thảo hoa không tên không tuổi.

Phân tích: Đoạn 3 bài thơ có thể xem như bức tranh chia làm 4 cảnh đẹp lộng lẫy:

Cảnh đêm trăng vàng bên bờ suối:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Có thể những đêm trăng như thế, “chúa sơn lâm” đã đứng ở nhiều vị trí khác nhau, nhưng vị chúa vẫn nhớ nhất là lúc đứng bên bờ suối, vì đó là cảnh thơ mộng, đắm say nhất. Hổ say mồi thì chỉ là bản năng mãnh thú, nhưng hổ còn đắm say vì đêm vàng, say vì uống ánh trăng tan trong nước suối đại ngàn.

Cảnh hiện lên trong hồi tưởng, trong hoài niệm mà lung linh, sống động như thực vì nó được hồi tưởng trong luyến tiếc, đắm say, khao khát. Biết bao đêm vàng như thế đã đi qua đời hổ, trong quá khứ đã bao lần trăng lên trăng lặn? Đã bao lần vị chúa say mồi đứng uống ánh trăng tan. Có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm, rung động trước cảnh đẹp thì nhiều hơn.

Cảnh những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn:

Mưa ngàn thì thật là dữ dội: mưa chuyển bốn phương ngàn mịt mờ, rung chuyển núi rừng, có thể kèm theo cả sấm chớp, có thể làm kinh hoàng những con thú hèn yếu.

Nhưng với chúa sơn lâm thì không. Không mảy may sợ hãi trước uy lực của trời đất, vẫn điềm nhiên lặng ngắm giang sơn.

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới.

Cái vẻ lặng ngắm chứa đựng cả một sức mạnh chế ngự, một bản lĩnh vững vàng không gì có thể lay chuyển được. m điệu câu thơ gợi một chút thích thú về sự sở hữu một giang sơn to lớn.

- Cảnh bình minh cây xanh nắng gội:

Đây là một bức tranh tươi sáng, tưng bừng của bình minh, lúc vạn vật thức dậy cùng mặt trời, nắng chiếu lên cây xanh, chim chóc reo ca, nhưng mặc kệ, hổ vẫn ngủ. Giấc ngủ của “ông” thật đặc biệt: giấc ngủ ta tưng bừng. Một minh hổ một giấc ngủ riêng không gì động đến được, cảnh ngoài kia chỉ có thể tô điểm làm giấc ngủ “ông” thom say, thêm đẹp mà thôi.

Hổ hoạt động theo cái cách của kẻ có uy lực nhất khu rừng, muốn gì được nấy. "Ông chúa" này có thể chi phối, chế ngự kẻ khác chứ không bao giờ để cho kẻ khác chi phối, chế ngự mình. Đêm, vạn vật chìm trong giấc ngủ thì hổ thức cùng vũ trụ trăng sao; ngày mưa rung chuyển thì hổ lặng ngắm giang sơn.

Cảnh những chiều lênh láng máu sau rừng:

Đây là bức tranh “ghê gớm” nhất, đẹp một cách dữ dội và bi tráng nhất:

+ Rực rỡ trong gam màu đỏ của máu lênh láng màu đỏ của mặt trời như bé đi trong mắt nhìn của hổ.

+ Không khí chết chóc bao trùm được gợi lên trong hình ảnh lênh láng máu và giây phút sắp tắt của mảnh mặt trời gay gắt.

Không phải mặt trời và vũ trụ trao lại quyền cho mãnh hổ mà chính là mãnh hổ đang giành lấy quyền lực từ vũ trụ, từ mặt trời để chiếm lấy riêng phần bí mật, để ngự trị đêm tối.

Dòng hồi tưởng phát triển đến cao trào bỗng hạ xuống bằng một lời than, một tiếng thở dài ngao ngán. Con hổ sực tỉnh cái thân tù:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Câu hỏi thứ năm là một tiếng than thống thiết, đưa con hổ về với thực tại đau thương, với nỗi ngao ngán vô biên như trời bể, tưởng như đứt ruột. Lời than có sức lay động và ngân vang.

c. Qua sự đối lập sâu sắc giữa hai cảnh nêu trên, tâm sự của con hổ ở vườn bách thú đã biểu hiện:

+ Tâm sự của con hổ ở vườn bách thú đã thể hiện nỗi bất hòa sâu sắc giữa thực tại và niềm khao khát mãnh liệt về tự do.

+ Đó là tâm trạng của nhà thơ lãng mạng chung của người dân Việt Nam mất nước khi đó.

Câu 3.

Giải thích: Tác giả bài thơ Nhớ rừng mượn lời con hổ ở vườn bách thú để thể hiện một lời nhắn gửi trữ tình sâu sắc.

Tác dụng: Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính là sự chán ngán của một lớp người trong xã hội bấy giờ (1931 - 1945) cảm thấy bế tắc trước cuộc sống, chán chường với thực tại, khát khao một cuộc đời tự do, phóng khoáng mặc dù chưa được định hướng rõ ràng. Việc mượn lời con hổ như vậy có thể giúp cho nhà thơ thể hiện được tất cả tâm trạng và cảm xúc của mình.

Câu 4. Nhà phê bình Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ:

“Đọc đôi bài, nhất là bài thơ “Nhớ rừng”, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viễn tưởng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” (Thi nhân Việt Nam). Giải thích và chứng minh ý kiến của Hoài Thanh.

- Cái tài của Thế Lữ là sử dụng những từ ngữ một cách sáng tạo, mới mẻ. Ngôn ngữ và nhạc điệu của bài thơ rất phong phú, giàu sức biểu cảm. Ta có thể thống kê những từ ngữ nói về sự tù túng, tầm thường giả dối của vườn bách thú và chỉ ra rất nhiều từ ngữ "đắt" gây ấn tượng đậm nhất của núi rừng hùng vĩ.

Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn qua những từ ngữ sinh động mới mẻ. Nguồn ngôn ngữ ấy tạo nên một mạch cảm xúc sôi nổi, cuồn cuộn, tuôn trào theo ngòi bút. Hình ảnh mà đội quân “Việt ngữ” tạo nên rất giàu chất thơ, đầy ấn tượng.

Chính do khéo sử dụng các từ ngữ gợi hình, gợi cảm mà giọng thơ khi thì u uất, bực dọc, dằn vặt, khi thì say sưa, thiết tha, hùng tráng nhưng tất cả đều như những người lính đứng trong quân đội đúng theo vị trí của mình nên tạo cho bài thơ liền mạch, nhất quán.

- Trong bài thơ có hai cảnh tượng tương phản, cấu trúc hai cảnh đối lập nhau vừa thể hiện chủ đề vừa biểu hiện tâm trạng:

+ Một cảnh là thực tại,

+ Một cảnh là mộng tưởng.

- Ở đoạn thơ thứ ba có những câu có thể gọi là tuyệt bút bởi sự bố trí, sắp xếp các từ ngữ một cách sinh động, độc đáo.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
......................................................

III. BÀI VĂN THAM KHẢO

Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Bài làm

Hình tượng con hổ là hình tượng trung tâm trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ. Thắm đượm trong từng câu, từng ý là nỗi nhớ rừng của con hổ. Nỗi nhớ ở đây được biểu hiện một cách hết sức mãnh liệt, có khi trở nên dữ dội trên nhiều khía cạnh của tình cảm, chứ không phải là một nỗi nhớ man mác, bâng quơ. Nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ của một anh hùng bị thất thế, chứ không phải là một nỗi nhớ của một kẻ bé nhỏ, tầm thường.

Ngay từ đầu bài thơ, ta thấy nỗi nhớ rừng của chúa sơn lâm được biểu hiện ở thái độ căm tức đến mức đau đớn cho số phận không may của mình:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt...

Vì “sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm”, nó cảm thấy nhục vì phải trở thành một “thứ đồ chơi cho một lũ người” “mắt bé” nhưng lại “ngạo mạn” và “ngẩn ngơ”. Nó không chịu được cái cảnh phải “sống ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”.

Nó căm hờn! Nó thấy nhục! Nó căm ghét tất cả! Vì nó đang phải nằm dài trong “cũi sắt”.

Nỗi nhớ rừng của mãnh hổ càng được biểu hiện một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc hơn khi nó hồi tưởng về một thời quá khứ vàng son, oanh liệt của mình với một tâm trạng luyến tiếc.

Nó nhớ những hình ảnh đẹp, những âm thanh vang vọng của núi rừng:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội.

Giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ đó, nó xuất hiện như một vị sơn thần. Từ “bước chân” “dõng dạc” đến “lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng” từ “vờn bóng âm thầm” đến “quắc đôi mắt thần” làm sáng rực cả hang tối, nó là “chúa tể của muôn loài” làm cho mọi vật phải “im hơi” lặng tiếng.

Nó nhớ những kỉ niệm trong cuộc sống thường ngày ở chốn rừng sâu, nhớ đến thèm khát cháy bỏng. Những lúc say mồi dưới ánh trăng:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...

Những lúc ngủ ngon khi bình minh đang lên và chim rừng đang tưng bừng ca hát. Những lúc chờ đợi mảnh mặt trời tắt đi để một mình chiếm lấy cả không gian bí mật. Những lúc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của giang sơn sau một cơn mưa rừng dữ dội. Tất cả, đối với nổ là một thời oanh liệt.

Nhưng thời oanh liệt đó đã thuộc về dĩ vãng. Nó chỉ còn biết cất một tiếng “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!” càng căm uất cho số phận của mình lúc sa cơ thất thế, càng luyến tiếc về một quá khứ oai hùng, oanh liệt, con hổ có một thái độ khinh bạc, coi khinh cuộc sống thực tại giả dối đang diễn ra xung quanh nó:

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phảng, cây trồng...

Chẳng qua cũng là “học đòi, bắt chước vẻ hoang vu, của chốn ngàn năm cao cả âm u".

Khinh bạc với hiện tại, nó lại khát khao trở về nơi “núi non, hùng vĩ” để ngự trị sơn lâm, trở về với cuộc sống tự do, phóng khoáng, tha hồ vùng vẫy tung hoành. Nhưng một sự thực, nó đang bị giam trong “cũi sắt”. Chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo “giấc mộng ngàn” để được sống những phút oanh liệt, để xua tan những ngày ảm đạm “ngao ngán” của mình.

Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính là chán ngán trước một lớp người trong xã hội bấy giờ (1931 - 1945) cảm thấy bế tắc trước cuộc sống, chán chường với thực tại, khát khao một cuộc đời tự do, phóng khoáng mặc dù chưa được định hướng rõ ràng. Đó cũng là một thái độ đáng quý, đáng trân trọng.

Các bài học liên quan
ÔN TẬP VÀ KIỂM TRA PHẦN TIẾNG VIỆT
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
ÔN LUYỆN VỀ DẤU CÂU
ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN - Phan Châu Trinh
VÀO NHÀ NGỤC QUẢNG ĐÔNG CẢM TÁC - Phan Bội Châu

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 8 mới cập nhật