ÔNG ĐỒ - Vũ Đình Liên
Ông đồ là những nhà nho, không đỗ đạt cao để đi làm quan, mà chỉ ngồi dạy học “chữ nghĩa thánh hiền”. Ông đồ được nhà thơ nói đến là nhà nho tài hoa. Ông xuất hiện vào độ hoa đào nở, bên phố đông người qua. Ông có những tháng ngày đẹp, những kỉ niệm đẹp.
- Bài học cùng chủ đề:
- Soạn bài Ông đồ - Ngắn gọn nhất
- Soạn bài Ông đồ
- Phân tích nhân vật trữ tình trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG
Vũ Đình Liên (1913 - 1996) là nhà giáo từng viết văn và làm thơ. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với bài Ông đồ viết theo thể ngũ ngôn trường thiên gồm 20 câu thơ. Đây là bài thơ thuộc loại thi phẩm "từ cạn" mà "tứ sâu" biểu lộ một hồn thơ nhân hậu, giàu tình thương người và mang niềm hoài cổ bâng khuâng.
Ông đồ là những nhà nho, không đỗ đạt cao để đi làm quan, mà chỉ ngồi dạy học “chữ nghĩa thánh hiền”. Ông đồ được nhà thơ nói đến là nhà nho tài hoa. Ông xuất hiện vào độ hoa đào nở, bên phố đông người qua. Ông có những tháng ngày đẹp, những kỉ niệm đẹp.
Bài thơ chứa chan tinh thần nhân đạo. Thương ông đồ cũng là thương một lớp người đi vào quá khứ vĩnh viễn. Ông đồ tượng trưng cho một nền văn hóa đang lụi tàn, một lớp người đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ, nỗi tiếc nhớ đối với cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Sự đồng cảm xót thương của Vũ Đình Liên đối với ông đồ đã thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản, nhân hóa, ẩn dụ đã tạo nên những hình ảnh gợi cảm sâu sắc và đầy ấn tượng trong lòng người đọc.
II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)
Câu 1. Phân tích hình ảnh ông đồ:
Hình ảnh “ông đồ” được nhà thơ phác họa ở hai thời điểm:
- Khi ông đồ được người đời trọng vọng (hai khổ thơ đầu)
Thuở ấy, khi đạo nho, chữ nho và nền Hán học còn thịnh vượng, ông đồ được người đời trọng vọng. Ông chính là nhân vật quan trọng, luôn được mọi người chú ý trong những ngày tết cổ truyền.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Ngày mà cái thú chơi chữ, treo câu đối còn phổ biến, mỗi năm tết đến, xuân về, hoa đào nở, ông đồ lại chọn chỗ đông người bày mực tàu giấy đỏ để viết thuê và bán câu đối. Cái "cửa hàng văn hóa di động" của ông mới đông vui làm sao.
Ở hai khổ trên, ông đồ xuất hiện trong màu sắc rực rỡ, trong âm thanh vui tươi, trong không khí nhộn nhịp. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ có nhịp điệu nhanh, khỏe, liền mạch, có âm thanh giòn giã.
Khi ông đồ bị gạt ra ngoài lề xã hội và dần vắng bóng (khổ 3 - 4) Từ đầu thế kỉ XX, cuộc chiến tranh giữa văn hóa Đông và Tây trở nên gay gắt và văn hóa phương Tây càng lấn át văn hóa phương Đông. Đó cũng là lúc thời thế thay đổi, đạo nho, chữ nho không còn giữ được vị thế của mình, mạt vận của nó đã đến. Trước sự thật này, nhà thơ Tú Xương đã phải thốt lên ngao ngán:
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghe, ông cống cũng nằm co
Thà rằng đi học làm ông phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò.
Trong bối cảnh ấy, tình cảnh ông đồ ngày càng trở nên bi đát. Người thuê viết mỗi năm mỗi vắng. Vì người buồn, nên giấy đỏ dường như cũng không thắm nữa, mực đọng như giọt lệ và nghiên cũng sầu não theo.
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu.
Thêm vào đó, cảnh vật làm cho không gian thêm quạnh hiu, tiêu điều. Tất cả mờ mịt như có sương mù bao phủ, cho dù vẫn ngồi đấy, ông đồ đã bị người đời quên lãng rồi! Ông chỉ còn là “cái di tích đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Và có lẽ từ đó, ông vắng bóng luôn. Đấy như là một sự tất yếu phũ phàng.
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Câu 2. Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ:
Đến một tết nào đó, khi hoa đào lại nở, người ta lại thảng thốt nhận ra sự vắng bóng của ông đồ. Khổ kết của bài thơ vang lên như một tiếng gọi hồn:
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Niềm tâm sự trong khổ thơ cuối bài gợi lên ở người đọc một nỗi buồn, một nỗi trắc ẩn, xót thương cho những người đã trở thành cũ kĩ trước thời gian và bị thời thế khước từ.
Câu 3. Cái hay của bài thơ được thể hiện ở những điểm sau đây:
Sự đồng cảm xót thương của Vũ Đình Liên đối với ông đồ đã trang trải và thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp tương phản, kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ, đã tạo nên nhiều hình ảnh gợi cảm, thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, đậm đà.
Vũ Đình Liên dùng thể thơ ngũ ngôn, lời thơ thật bình dị. Nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét: “ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy”.
Bài thơ Ông đồ chứa chan tinh thần nhân đạo: "theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ lưu danh với người đời" (Hoài Thanh). Đó là lời tốt đẹp nhất, trân trọng nhất mà tác giả Thi nhân Việt Nam đã dành cho Vũ Đình Liên và bài thơ kiệt tác Ông đồ.
Câu 4. Phân tích bốn câu thơ:
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu...
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Có thể xếp các câu thơ trên vào những câu thơ hay của nền thơ Việt Nam hàng chục thế kỉ qua. Cảnh tả đã hay, tình chứa trong đó lại thật nặng. Chữ đều trĩu xuống vì cảm xúc, tình cảm, tình nghĩa ẩn chứa trong cảnh.
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Câu thơ nói lên sắc màu phai nhạt, nhịp điệu quẩn quanh ngập ngừng tê tái..., trong đó, phép điệp được sử dụng khá nhiều nhằm khắc họa thành công hình ảnh ông đồ chìm dần vào không gian mờ mịt và thời gian vô tận, đồng thời cũng thể hiện cảm xúc tăng tiến của bài thơ.
Gió, mưa, lá rụng phủ lên mặt giấy, phủ lên vai người. Hình ảnh ông đồ như chìm dần, như nhòe lẫn trong cái không gian đầy mưa gió. Để rồi sau đó vĩnh viễn không còn thấy ông nữa. Hình ảnh lá vàng, mưa bụi đã dệt nên tấm khăn liệm đưa tiễn ông đồ.
Đây là hai câu thơ tả cảnh, nhưng là một cảnh buồn đặc sắc. Giấy đỏ buồn đến không thắm ở câu thơ trên giờ bị “phủ lá vàng”, ... lá vàng cuối mùa rơi trên mặt giấy, nó rơi và nằm lại đây vì mặt giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi. Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối bất động của ông đồ...” (Vũ Quần Phương).
III. BÀI VĂN THAM KHẢO
Vũ Đình Liên (1913 - 1996) là nhà giáo từng viết văn và làm thơ. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với bài Ông đồ viết theo thể ngũ ngôn trường thiên gồm 20 câu thơ. Đây là bài thơ thuộc loại thi phẩm "từ cạn" mà "tứ sâu" biểu lộ một hồn thơ nhân hậu, giàu tình thương người và mang niềm hoài cổ bâng khuâng.
Ông đồ là những nhà nho, không đỗ đạt cao để đi làm quan, mà chỉ ngồi dạy học “chữ nghĩa thánh hiền”. Ông đồ được nhà thơ nói đến là nhà nho tài hoa. Ông xuất hiện vào độ “hoa đào nở”... “bên phố đông người qua”. Ông có những tháng ngày đẹp, những kỉ niệm đẹp:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Hoa đào nở tươi đẹp Giấy đỏ đẹp, mực Tàu đen nhánh. Nét chữ bay lượn tài hoa. Còn gì vui sướng hơn:
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài.
Thời thế đã đổi thay. Hán học lụi tàn trong xã hội thực dân nửa phong kiến: “Thôi có ra gì cái chữ Nho - Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co...” (Tú Xương). Ông đồ già là một khách tài tử sinh bất phùng thời. Xưa “phố đông người qua”, nay “mỗi năm mỗi vắng”. Xưa kia “bao nhiêu người thuê viết”, bây giờ “người thuê viết nay đâu?”. Một câu hỏi cất lên nhiều ngơ ngác, cảm thương. Nỗi sầu tủi từ ông đồ như làm cho mực khô và đọng lại trong “nghiên sầu”, như làm cho giấy đỏ nhạt nhòa “buồn không thẳm”. Giấy đỏ nghiên mực được nhân hóa, thấm bao nỗi buồn tê tái của nhân tình thế sự:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiêng sầu...
Cảnh vật buồn, lòng người buồn. Vũ Đình Liên đã xuất thần viết nên hai câu thơ tuyệt bút lay động bao nhiêu thương cảm trong lòng người.
Nỗi buồn từ lòng người thấm sâu, tỏa rộng vào không gian cảnh vật. Dưới trời mưa bụi, “ông đồ vẫn ngồi đấy” như bất động, lẻ loi và cô đơn: “Qua đường không ai hay”. Cái vàng của lá, cái nhạt nhòa của giấy, của mưa bụi đầy trời và cơn mưa trong lòng người. Một nỗi buồn lê thê:
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Thơ tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật tàn tạ mênh mang. Lòng người buồn thương thấm thìa.
Khép lại bài thơ là một câu hỏi diễn tả một nỗi buồn trống vắng, thương tiếc, xót xa. Hoa đào lại nở. Ông đồ già đi đâu về đâu...
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Thương ông đồ cũng là thương lớp người đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Thương ông đồ cũng là xót thương một nền văn hóa lụi tàn dưới ách thống trị của ngoại bang. Sự đồng cảm xót thương của Vũ Đình Liên đối với ông đồ đã trang trải và thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp tương phản, kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ, đã tạo nên nhiều hình ảnh gợi cảm, thể hiện một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, đậm đà.
Bài thơ Ông đồ chứa chan tinh thần nhân đạo “theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ lưu danh với người đời” (Hoài Thanh). Đó là lời tốt đẹp nhất, trân trọng nhất mà tác giả Thi nhân Việt Nam đã dành cho Vũ Dinh Liên và bài thơ kiệt tác “Ông đồ”.
- Bài 1 sgk ngữ văn 8
- Bài 2 sgk ngữ văn 8
- Bài 3 sgk ngữ văn 8
- Bài 4 sgk ngữ văn 8
- Bài 5 sgk ngữ văn 8
- Bài 6 sgk ngữ văn 8
- Bài 7 sgk ngữ văn 8
- Bài 8 sgk ngữ văn 8
- Bài 9 sgk ngữ văn 8
- Bài 10 sgk ngữ văn 8
- Bài 11 sgk ngữ văn 8
- Bài 12 sgk ngữ văn 8
- Bài 13 sgk ngữ văn 8
- Bài 14 sgk ngữ văn 8
- Bài 15 sgk ngữ văn 8
- Bài 16 sgk ngữ văn 8
- Bài 17 sgk ngữ văn 8
- Bài 18 sgk ngữ văn 8
- Bài 19 sgk ngữ văn 8
- Bài 20 sgk ngữ văn 8
- Bài 21 sgk ngữ văn 8
- Bài 22 sgk ngữ văn 8
- Bài 23 sgk ngữ văn 8
- Bài 24 sgk ngữ văn 8
- Bài 25 sgk ngữ văn 8
- Bài 26 sgk ngữ văn 8
- Bài 27 sgk ngữ văn 8
- Bài 28 sgk ngữ văn 8
- Bài 29 sgk ngữ văn 8
- Bài 30 sgk ngữ văn 8
- Bài 31 sgk ngữ văn 8
- Bài 32 sgk ngữ văn 8
- Bài 33 sgk ngữ văn 8
- Bài 34 sgk ngữ văn 8
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo