HAI CHỮ NƯỚC NHÀ (trích) - Trần Tuấn Khải

Bài thơ Hai chữ nước nhà là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của một nhân vật lịch sử.

I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG

Bài thơ Hai chữ nước nhà là những cảm xúc chân thành, mãnh liệt, vừa gợi tả tâm trạng khắc khoải, đau thương của một nhân vật lịch sử.

Đề tài lấy từ câu chuyện lịch sử có thật, khi Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt về Trung Quốc, nước ta bị quân thù giày xéo. Thù nhà, nợ nước khắc sâu trong tâm trí cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi: Cha bị giải sang Tàu, không mong ngày trở lại, con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Cả hai cha con đều đau đớn đến tột cùng vì nước mất nhà tan, cha con li biệt... Ẩn chứa trong lời thơ là những giọt lệ, những lời than nức nở. Nhưng đó là những lời dặn dò nêu cao lòng yêu nước, căm thù giặc của người cha đối với người con.

Bài thơ viết theo thể song thất lục bát đem đến cho người đọc một sự xúc động sâu sắc. Trần Tuấn Khải đã sử dụng nhiều hình ảnh và từ ngữ có tính ước lệ, sáo mòn nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.

II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)

Câu 1. Nhận xét về giọng điệu đoạn thơ. Thể thơ truyền thống song thất lục bát đã góp phần vào việc thể hiện giọng điệu đó.

- Bài thơ Hai chữ nước nhà sáng tác theo thể thơ song thất lục bát.

- Song thất lục bát vốn là thể được dùng để viết “ngâm khúc”.

- Những vần trắc xô xát giữa câu, réo rắt, da diết, rất hợp để diễn đạt nỗi uất ức, nỗi căm giận, lời mắng nhiếc, tiếng thở than, sự nghĩ ngợi, nỗi u sầu...

Câu 2. Đoạn thơ có thể chia làm 3 phần: 8 câu đầu, 20 câu tiếp theo và 8 câu cuối. Ý chính từng phần:

Phần 1: Tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn.

Phần 2: Cảnh đất nước trong nỗi đau thương, tang tóc.

- Phần 3: Lời than về thế bất lực người cha và lời trao gửi cho con.

Câu 3. Ở 8 câu đầu, tìm và phân tích những chi tiết nghệ thuật biểu hiện các mặt:

* Bối cảnh không gian:

- Cuộc chia li diễn ra ở nơi biên ải xa xôi, ảm đạm heo hút “ải Bắc, mây sầu, gió thảm”.

- Đây cũng là nơi tận cùng của đất nước, người cha vĩnh viễn li biệt quê hương, Tổ quốc.

- Tâm trạng ấy mang nặng màu tang tóc, thê lương và cảnh vật ấy lại càng như giục cơn sầu trong lòng người.

- Với không gian đó nên từ ngữ dù có cũ mòn, ước lệ vẫn tạo được không khí chung cho toàn bài.

* Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con:

- Hoàn cảnh:

+ Cha bị giải sang Tàu, không mong ngày trở lại

+ Con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu

+ Nhưng cha dằn lòng khuyên con ở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.

- Cả hai cha con đều đau đớn đến tột cùng vì nước mất nhà tan, cha con li biệt...

* Trong bối cảnh không gian và tâm trạng ấy, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăn trối.

Câu 4. Phân tích đoạn thơ thứ hai.

Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ “hai chữ nước nhà” là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn "mấy ngàn năm" của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao “anh hùng hiệp nữ” như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:

Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì

Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân “cuồng Minh”:

Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
(...)
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu.

Những từ ngữ hình ảnh “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông”, “thành tung quách vỡ”, “đất khóc giời than”, “xây khối uất”, “vật cơn sầu”... tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về Bình Ngô đại cáo đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...

Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm can. Càng đau đớn, càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:

Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?

Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cùng là lời non nước.

Câu 5. Trong phần cuối đoạn thơ người cha nói đến cái thế bất lực của mình và sự nghiệp tổ tông là để nhằm mục đích:

- Nói đến cái thế bất lực của mình:

+ Tuổi già sức yếu
+ Lỡ bước sa cơ
+ Đành chịu bó tay.

- Kích thích, hun đúc ý chí của người con. Lời của người cha như tiếng kêu cứu, người con không thể thờ ơ vì sức nặng tình cảm cha con.

III. BÀI VĂN THAM KHẢO

Phân tích nội dung nghệ thuật thể hiện của đoạn trích Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải.

Bài làm

Đoạn trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát. Đây là đoạn trích trong tập Bút quan hoài sáng tác vào năm 1926.

Tác giả đã mượn đề tài có thật trong lịch sử là Nguyễn Phi Khanh - cha của Nguyễn Trãi - bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Cuộc chia tay đẫm lệ giữa hai cha con ở “Chốn ải Bắc” - một địa phận thuộc tỉnh Lạng Sơn của nước ta giáp với Trung Quốc.

Đoạn trích có thể chia làm 3 phần:

Phần đầu: Có 8 câu, tác giả gợi nên cảnh chia li ở nơi biên giới. Cảnh chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm, thê lương!

Cha đã già phải đem “chút thân tàn lần bước dặm khơi”, còn con thì ở lại với non nước trong cảnh “cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”.

Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên.

Trần Tuấn Khải đã mượn lời nhân vật lịch sử nói lên nỗi đau “nước mất nhà tan”. Dĩ nhiên trong hai câu thơ trên còn gửi gắm vào đó một niềm tin bởi vì có niềm tin mới khuyên bảo.

Phần thứ hai: gồm 20 câu, tác giả gợi lại qua lời người cha về dòng giống Lạc Hồng, về lịch sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc, như một thiên định:

Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì?

Lời dặn của người cha như bừng bừng căm giận. Giọng nói trở nên khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân xâm lược Minh. Trên mảnh đất tuy có lúc suy thịnh đổi thay nhưng vẫn có những “Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì”.

Rõ ràng người cha đã kích động lòng tự hào, tự tôn dân tộc để người con cầm lấy bút mà ghi tội ác của giặc:

Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vờ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn...

Hãy cầm lấy gươm để thanh toán nỗi căm uất:

Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà!

Lời dặn dò đẫm lệ, nức nở trong đau thương nhưng đã khơi dậy ý chí chiến đấu, quyết tâm giữ lấy giang sơn.

Phần thứ ba: gồm 8 câu, tác giả đã để cho người cha than thở, nhưng chủ yếu là nói lên niềm tin tha thiết thấm sâu vào trái tim khối óc người con:

Giang san gánh vác sau này cậy con.

Hai chữ nước nhà là bài thơ hay, rất gợi cảm. Ý nghĩa sâu xa của nó còn là kích động lòng căm thù với bọn xâm lược Pháp, nói lên khát vọng tự do của nhân dân Việt Nam.

Ngôn ngữ và hình ảnh trong thơ rất trong sáng giản dị, nhưng nhà thơ đã dùng những cặp câu thơ thất ngôn đối nhau và sử dụng những hình ảnh nhân hóa rất đậm nét. Vì vậy, ở Á Nam Trần Tuấn Khải có một bút pháp nghệ thuật cổ vẻ dân dã nhưng rất độc đáo. Vì vậy ngay từ thời Pháp thuộc, bài thơ đã làm cho lòng người phải xúc động không ngớt.

Các bài học liên quan
ÔN LUYỆN VỀ DẤU CÂU
ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN - Phan Châu Trinh
VÀO NHÀ NGỤC QUẢNG ĐÔNG CẢM TÁC - Phan Bội Châu
THUYẾT MINH VỀ MỘT THỂ LOẠI VĂN HỌC
Thuyết minh về một giống vật nuôi.
Thuyết minh về đôi dép lốp (cao su) trong kháng chiến.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 8 mới cập nhật