Đề: Qua phần một của đoạn Đất Nước trích trường ca Mặt đường khát vọng, hãy phân tích cảm hứng về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Đoạn Đất Nước trích gần trọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

BÀI LÀM

Cùng với Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong khói lửa ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Nguyễn Khoa Điềm gắn bó sâu sắc với vùng Trị -Thiên, đặc biệt với thành phố Huế quê hương ông.

Với những tác phẩm như tập thơ Đất ngoại ô và nhất là trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm được coi là một nhà thơ giàu cảm xúc và chất trí tuệ, biểu hiện tập trung những suy tư của người thanh niên trí thức nỗ lực đóng góp vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Trường ca Mặt đường khát vọng được sáng , tác vào mùa đông 1971, tại chiến trường Trị - Thiên, và được in ở miền Bắc vào năm 1974. Đây là một tác phẩm khá tiêu biểu, đánh dấu những đóng góp có ý nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm cho sự phát triển của thơ ca thời chống Mĩ. Trong số một loạt những trường ca ra đời vào thập kỉ 80 của thế kỉ XX như Bài ca chim Chơ Rao của Thu Bồn, Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân ... Mặt đường khát vọng có những thành công riêng, thể hiện đầy cảm xúc hình ảnh tầng lớp tuổi trẻ miền Nam ý thức được trách nhiệm của thế hệ mình đối với nhân dân, đối với đất nước, vùng lên đấu tranh chống lại kẻ thù.

Đoạn Đất Nước trích gần trọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nếu không đọc kĩ trọn vẹn trường ca Mặt đường khát vọng, dễ nhầm tưởng rằng dường như chương V này không đề cập trực tiếp đến các vấn đề của thanh niên trí thức miền Nam, không nói đến hiện thực sôi động trong cuộc chiến đấu trong các thành thị miền Nam thời Mĩ - Ngụy, do đó nó không thật gắn bó chặt chẽ với toàn bộ tác phẩm. Song, thực ra, chương này lại là hạt nhân quan trọng nhất của tác phẩm: sự ý thức về đất nước, về nhân dân đã dẫn đến sự ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ, trong cuộc chiến tranh oanh liệt vì đất nước, vì nhân dân.

Trong văn học Việt Nam, đất nước vốn là một đề tài lớn. Điều đó có thể giải thích bằng đặc điểm quá trình lịch sử đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm phải liên tục chiến đấu gìn giữ đất nước, hơn ai hết, người Việt Nam luôn luôn gắn bó sâu nặng với đất nước, với đồng bào. Văn học viết thời phong kiến đã có những kiệt tác viết về đất nước như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Từ sau Cách mạng tháng Tám, đề tài này thường xuyên xuất hiện trong văn học: Nguyễn Đình Thi viết bài Đất Nước nổi tiếng chủ yếu trong thời kì chống Pháp. Cùng thế hệ của Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh... đều có những tác phẩm thể hiện đề tài đất nước ở đề tài này, các tác giả ghi nhận những thành công nhất định. Những đoạn trích Đất Nước nói riêng, và trường ca Mặt trường khát vọng nói chung vẫn chiếm được tình cảm người đọc bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho đề tài này một số nội dung có phần mới mẻ và một cách phô diễn khá độc đáo, hấp dẫn, không giống bất kì cây bút nào đi trước,

Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu thật bình dị. Dưới cách nhìn và cách cảm của nhà thơ trẻ (khi viết trường ca này Nguyễn Khoa Điềm mới 28 tuổi), đất nước là những gì vô cùng gần gũi, bình dị, gắn bó thật sâu nặng với mỗi con người, mỗi gia đình. Đất nước hiện diện từng giây, từng phút trong cuộc sống thuần nhất, và là trừu tượng, song lại hết sức cụ thể đối với từng thành viên. Theo tác giả, đất nước chẳng có gì xa lạ. Đất nước có trong những câu chuyện mà mỗi bà mẹ thường kể cho con nghe hay bắt đầu bằng câu “Ngày xửa ngày xưa... ”. Đất nước còn là những tập quán lưu trữ từ ngàn đời nay, biểu hiện ở miếng trầu bà ta vẫn ăn, hay thói quen tóc bới sau đầu của mẹ. Đất nước còn là mối quan hệ thủy chung son sắt giữa người với người cùng sống trên dải đất Việt Nam này. Điều ấy trước hết được chứng minh bằng quan hệ bền vững được sau của mẹ với cha - của vợ với chồng. Trong căn nhà đơn sơ bao thế hệ người Việt Nam đã sinh con đẻ cái, cần mẫn, lam lũ sớm trưa không bao giờ thiếu mái rạ, cây tre. Trong căn nhà rất đỗi quen thân ấy, không thể thiếu cái kèo; cái cột... Đây cũng chính là đất nước.

Cái mới lạ, sức hấp dẫn ở đoạn thơ này chính là cách nói hết sức bình dị của nhà thơ. Điều này đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của người đọc những kỉ niệm, những ấn tượng về một quê hương Việt Nam, con người Việt Nam quen thuộc gần gũi mà bất kỳ một người đọc nào cũng đã từng chứng kiến, khiến họ không khỏi bồi hồi xao xuyến nhận ra trong đất nước có một phần máu thịt của mình.

Tiếp tục mạch cảm hứng ở khổ đầu, đến khổ thơ tiếp theo, nhiều khi Nguyễn Khoa Điềm tách riêng hai yếu tố đất và nước. Đất nước chính là sự hợp thành của hai yếu tố đít và nước. Nó luôn gần gũi với cuộc sống mọi người:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi Con cá ngư ông móng nước biển khơi”.

Tiếp theo, nhà thơ cảm nhận đất nước qua độ dài vô tận của thời gian đằng đẵng, lẫn độ dài vô tận của không gian mênh mông.

Thời gian không chỉ dài mà điều quan trọng hơn là trên nền thời gian ấy đã có bao biến thiên lịch sử vừa chân thực, vừa phảng phất chất huyền thoại. Đồng bào ta vẫn tự hào là con Rồng cháu Tiên, cha là Lạc Long Quân và mẹ là u Cơ. Như vậy thời gian chủ yếu được cảm nhận trong chiều sâu của lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của dân tộc. Không gian vừa là núi cao sông rộng, muôn trùng núi bạc, bát ngát biển khơi, lại vừa là nơi sinh sống của bao nhiêu người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.

Đất được gắn bó thân thiết với mỗi con người, khi tuổi ấu thơ (Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm), cũng như khi ta lớn hơn, bước vào đời (Yêu nhau và sinh con đẻ cái).

Bởi vậy như một tất yếu, mỗi thành viên phải có nghĩa vụ đối với đất nước này. Nhờ sự dẫn dắt ở phần trên: nhờ xúc cảm chân thành, lời nhắn nhủ có vẻ như là “hô khẩu hiệu” của tác giả ở phần sau được người đọc chấp nhận một cách khá tự nhiên, rất ít có cảm giác sống sượng:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...

Như vậy đất nước được cảm nhận một cách khá phong phú, có sự kết hợp hài hòa trên nhiều tính vực: những phong tục lâu đời, những truyền thống văn hóa, giữa không gian và thời gian, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái to lớn hùng vĩ với những sinh hoạt thường nhật của mỗi con người. Nếu trong một số tác phẩm trước đây, đất nước được biểu hiện bằng một giọng điệu trang trọng, uy nghi, chủ yếu với những hình ảnh lớn lao, thì ở Mặt đường khát vọng, đất nước được thể hiện bằng những hình ảnh gần gũi với một giọng thơ thiết tha lắng đọng, ý thơ được phát triển một cách khá tự do, tự nhiên nhưng đoạn thơ vẫn đảm bảo được sự kết cấu hợp lý.

Điều đáng lưu ý là tác giả đã sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo vốn hiểu biết phong phú về văn hóa dân gian. Chẳng hạn, muốn diễn đạt ý tưởng đất nước ta có từ lâu đời, tác giả đưa người đọc liên tưởng đến kho tàng truyện cổ tích. Truyện cổ tích thường bắt đầu bằng lời kể ngày xửa ngày xưa... Tiếp đến nhà thơ giúp người đọc nhớ đến Sự tích Trầu cau bất hủ bằng câu: Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn. Và mấy ai không nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng, khi đọc câu thơ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Còn câu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn chính là sự vận dụng tuyệt vời câu ca dao đã từng làm rung động con tim bao người Việt Nam.

Tay nâng chén muối đĩa gừng,
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau.

Song cũng có lúc tác giả trích nguyên văn một số câu dân ca:

“Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
“ Con cá ngư ông móng nước biển khơi ”

Cho dù chỉ sử dụng ý trong ca dao trong các truyện dân gian, hay là trích nguyên văn, nhìn chung Nguyễn Khoa Điềm đều tạo được những câu thơ mới, những ý thơ mới. Những ý thơ này gắn bó khá chặt chẽ thông qua những câu thơ dài ngắn khác nhau, thậm chí đề cập đến những lĩnh vực tưởng như không mấy liên quan đến nhau. Chẳng hạn đang nói chuyện ngày xửa ngày xưa, nhà thơ chuyển đột ngột đến chuyện bây giờ (Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm). Rồi từ đó, tác giả lại dẫn người đọc vào thế giới xa xưa với dân ca và truyền thuyết (truyện Sự tích trăm trứng, dân ca xứ Huế...).

Cách diễn đạt ấy đã khêu gợi trí tưởng tượng ở người đọc. Các yếu tố văn hóa dân gian đã góp phần biểu hiện tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất Nước của Nhân dân. Đồng thời nó tạo được ở người đọc ấn tượng sâu sắc về một đất nước Việt Nam phong phú, sống động lạ thường, muôn màu muôn vẻ, trải dài theo không gian và thời gian, gần gũi thân thiết với từng con người Việt Nam.

Ngoài ra, đoạn thơ này còn thành công nhờ giọng điệu thân tình bình dị của tác giả. Nhà thơ vừa độc thoại lại vừa như trò chuyện với người đọc. Các đại từ được dùng một cách biến hóa khi thì dùng đại từ ngôi thứ nhất anh để nói với ngôi thứ hai em tựa hồ như một chàng trai đang tâm sự với người yêu, khi thì dùng ngôi thứ ba hai đứa, lại có lúc dùng đại từ ngôi thứ nhất bao gồm cả người đọc lẫn tác giả chúng ta...

Việc sử dụng đại từ có dụng ý nêu trên đã tạo cho đoạn thơ giọng điệu vừa biến hóa hấp dẫn, vừa thân mật, gần gũi, rất thích ứng trong việc biểu đạt nội dung: đất nước là một cái gì đó vô cùng gần gũi với mọi người, đồng thời còn chuẩn bị đoạn thơ thứ hai trình bày mối quan hệ máu thịt giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai.

Sau mấy mươi năm, ngày nay đọc lại đoạn trích này chúng ta càng thấy rõ phần nào những cống hiến của Nguyễn Khoa Điềm đối với sự phát triển của thơ ca thời chống Mĩ. Sự dồi dào trong xúc cảm và chiều sâu trí tuệ đã khiến cho đoạn thơ có chất chính luận trên đây vẫn giữ nguyên giá trị theo thời gian.

Các bài học liên quan
Đề: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:  Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 12 mới cập nhật