Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Giới thiệu về Huy Cận và bài thơ Tràng giang..

Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận:

   Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

   Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

   Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

   Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

GỢl Ý BÀI LÀM

CÁC Ý CHÍNH

   Giới thiệu về Huy Cận và bài thơ Tràng giang:

   Tràng giang là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận “hầu như trở thành cổ điển” (Xuân Diệu). Cảm hứng của bài thơ được gợi mở từ một buổi chiêu mùa thu năm 1939, khi tác già đứng ở bờ nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước và nghĩ về kiếp người thật bé nhỏ, cô đơn, không biết trôi dạt về đâu. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang những cảm xúc chung về bao dòng sông khác của quê hương, đất nước. Do vậy, cảnh sóng nước trong bài thơ đẹp và buồn, nhưng cũng thật quen thuộc và thân thiết với mỗi người Việt Nam. Qua bài thơ, ta cũng thấy được nồi sầu vũ trụ của Huy Cận. Đó là cảm giác cô liêu trước cái vô cùng của trời đất mênh mông.

   Phân tích hai câu thơ đầu:

   Tiếp tục ý thơ đã được gợi mở ra từ khổ một. Huy Cận đã đưa thêm những nét cạ thô để diễn ta cái bé nhỏ, cô đơn, xa vắng và nỗi buồn của hồn người đã thấm sâu vào tạo vật, ở đây Huy Cận đã dùng hàng loạt những hình ảnh và từ ngữ gợi buồn: “cồn” giữa dòng sông vốn gợi sự trống vắng, đơn độc, nay thêm “cồn nhỏ" lại càng buồn hơn nữa với từ “lơ thơ“ ở trước và “gió điu hiu” ở sau thì không chỉ buồn mà còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo. Huy Cận có lần tâm sự rằng, khi khổ thơ trên ông đã chịu ảnh hưởng vần thơ trong Chinh phụ ngâm khúc:

   Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo

   Bến Phì gió thối đìu hiu mấy gò

   Câu thơ thứ hai hiện có hai cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “đầu”  nghĩa là “không”, giữa nơi không gian rộng lớn, vắng vẻ đó không có cả tiếng chợ chiều quen thuộc làm cho khung cảnh thêm buồn vắng. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, có tiếng xao xác của chợ chiều, nhưng âm thanh đó quá nhỏ bé nên nó tạo không khí cho cảnh vật vui hơn, sinh động hơn mà trái lại càng vắng vẻ, quạnh hiu.

   Vì vậy, khi phân tích theo một trong hai cách này đều được chấp nhận, miễn là nêu lên dược cái không khí tàn tạ, buồn vắng và quạnh hiu.

   Phân tích hai câu thơ sau:

   Không gian thơ vụt lớn lên và mở ra đến bao la vô tận. Đây chính là cảm xúc vũ trụ thật mãnh liệt mà tinh tế của Huy Cận: Khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác về khoảng cách bầu trời - mặt đất sẽ trở nên hữu hạn, còn khi mặt trời chìm dần xuống thì ánh nắng hắt lên cao sẽ làm cho bầu trời trở nên trong xanh hơn và như bị dầy lên cao đến vô cùng. Khi ấy cái nhìn của con người từ dưới lên sẽ thấy bầu trời sâu thẳm “sâu chót vót ” Huy Cận không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu” vì nó vừa gợi độ cao, vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn, từ “chót vót” lại càng làm tăng thêm cái rợn ngợp của khung cảnh.

   Đến câu thơ sau, cùng với độ “sâu" của bầu trời là cái bề rộng bao la của vũ trụ và độ dài của con sông. Tất cả là một vẻ đẹp hùng vĩ nhưng hoang vắng gợi rõ nỗi buồn cô đơn, thấm thía, niềm “bâng khuâng” mơ hồ của con người trước vũ trụ, trước “trời rộng, sông dài”. Trong không gian ba chiều mênh mông, bát ngát như thế, hình ảnh của bến sông hiện lên đã nhỏ bé, đơn độc, lại là “bến cô liêu” thì càng thêm vẻ chơ vơ, lạnh lẽo, buồn vắng. Thủ pháp nghệ thuật tương phản đã được Huy Cận sử dụng rất thành công, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc.

KẾT LUẬN

   Huy Cận nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã đem tâm trạng buồn, cô đơn của mình “phủ lên thiên nhiên”. Tuy nhiên ở bề sâu của nỗi sầu vũ trụ ấy vần là tình yêu thắm thiết đối với quê hương đất nước. Điều đó lí giải vì sao nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san Tổ quốc”.

Các bài học liên quan
Bình giảng bài Tràng giang của Huy Cận.
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận ( bài 2).

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 11 mới cập nhật