Bài số 113: Cậu bé Xi-mông và khát khao có một người bố trong Bố của Xi- mông (Mô-pa-xăng)
Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé "không có bố" với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo.
- Bài học cùng chủ đề:
- Bài số 112: Phân tích đoạn trích Bố của Xi-mông (Mô-pa-xăng).
- Bài số 111: Sức mạnh của tình mẫu tử qua bài thơ Mây và sóng (R.Ta-go).
- Vài nét về Nam Cao
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng ba trăm truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỉ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiết thế?
Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé "không có bố" với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo.
Bé Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là "một cô gái đẹp nhất vùng" đã bị lầm lỡ trong tình yêu... Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt "cao lớn, xanh xao" phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời.
Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ bé, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.
Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học có những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời "ác độc" nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ "quỷ quái" hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỉ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn.
Bị bọn trẻ "xua đuổi", bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì "không có bố". Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau và cô đơn của em? Một đứa bé tám tuổi xuống sông để tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà "không có bố".
Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cổ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng im. Con nhái màu xanh "giương tròn con mắt có vành vàng" hình như đã níu giữ chân em trước từ thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng: "Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ". Em khóc nức nở. Em "chỉ khóc mà thôi". Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em chẳng biết gì nữa. Em đang đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lí bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong, cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé "không có bố".
Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Bác thợ rèn "cao lớn, râu tóc đen, quăn... nhân hậu" đã đến với Xi-mông. Bác đã "lau khô" đôi mắt đẫm lệ của em. Bác đã an ủi em với tình thương của một con người "có phép lạ": "Thôi nào, đừng buồn nữa, cháu ơi, và về nhà mẹ cháu với bác đi. Người ta sẽ cho cháu... một ông bố". Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi đau buồn cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em chị Blăng-sốt.
Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp bác thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé ngây thơ được sống, và người ta sẽ cho em "một ông bố". Đoạn đối thoại giữa bác thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được bác thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.
Tính cách Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi bác thợ rèn: "Bác có muốn làm bố cháu không?". Khi được bác thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má và nói: "Có chứ, bác muốn chứ" thì tâm hồn em "hoàn toàn khuây khỏa" và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào "có bố". Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: "Thế nhé, bác Phi-líp, bác là bố cháu". Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. "Con có cha như nhà có nóc" (Tục ngữ). Có bố tức là được quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thật sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn "như ném một hòn đá".
Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp.
Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!
Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông và tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống bác thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, bác thợ rèn gặp chị Blăng-sốt.
"Không có bố thì đau khổ", "Có bố thì hạnh phúc". Như một chân lí giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu!
Bài số 104: Hình ảnh những cô gái Trường Sơn qua truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9