Tìm hiểu tác phẩm Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm
I.Tìm hiểu chung Hoàn cảnh ra đời của bài chiếu
- Bài học cùng chủ đề:
- Đọc hiểu Chiếu cầu hiền
- Soạn bài Chiếu cầu hiền trang 68 SGK Văn 11
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc quét sạch 20 vạn giặc Thanh cùng bọn tay sai bán nước. Lê Chiêu Thống và tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ. Trước sự kiện trên, một số bề tôi của nhà Lê hoặc mang nặng tư tưởng trung quân lỗi thời, hoặc sợ hãi vì chưa hiểu triều đại mới nên có người đã bỏ trốn, hoặc đi ở ẩn, hoặc tự tử,…Quang Trung giao cho Ngô thì Nhậm thay mình viết Chiếu cầu hiền kêu gọi những người tài đức ra giúp nước an dân.
Văn bản thể hiện rõ sự khát khao cầu hiền của nhà vua trẻ tài đức, qua đó ta thấy được Ngô Thì Nhậm thật là uyên bác, cao tay trong việc dùng văn bản, thay mặt nhà vua chiêu hiền đãi sĩ. Ông xứng đáng là người được vua Quang Trung tin cậy.
Thể loại: Chiếu
Là một thể văn thư nhà vua dùng để ban bố mệnh lệnh cho thần dân. Công văn hành chính thời xưa gồm hai loại: Một loại do cấp dưới đệ trình lên nhà vua hoặc triều đình (tấu, chương, biểu, sớ, khải,…), một loại do nhà vua truyền xuống cho bề tôi ( chiếu, mệnh, lệnh, chế, dụ, cáo, …)
- Chiếu nói chung, chiếu cầu hiền nói riêng thuộc loại văn nghị luận chính trị – xã hội. Mặc dù chiếu thuộc loại công văn nhà nước, lệnh cho thần dân thực hiện, nhưng ở đây, đối tượng của bài chiếu là các bậc hiền tài, hơn nữa đây là cầu, tức là vua Quang Trung cầu, chứ không phải là lệnh.
Kết cấu của “ Chiếu cầu hiền”
Chiếu cầu hiền là một tác phẩm chính luận có kết cấu chặt chẽ, lập luận chắc chắn, lí lẽ sắc bén. Bài chiếu chia làm 3 phần:
- Phần 1: (đoạn 1 sgk): cơ sở lí luận của “chiếu cầu hiền” (mượn lời Khổng Tử, viện ý trời làm cơ sở cho việc cầu hiền)
- Phần 2 (đoạn 2a và 2b): tình hình thực tiễn và khao khát cầu hiền của nhà vua.
- Phần 3: (đoạn 3): Hướng sử dụng người hiền tài và lời kêu gọi người tài trong thiên hạ ra giúp dân giúp nước.
II.Phân tích
1.Cơ sở lí luận của “Chiếu cầu hiền”
Đoạn mở đầu tạo ra một tiền đề vững chắc, thuyết phục để cầu hiền.
- Mượn ý của Khổng Tử trong sách luận ngữ: Lấy đức mà cai trị đất nước, giống như sao Bắc Đẩu giữ đúng vị trí của mình, các ngôi sao khác sẽ về chầu.
Tác giả vừa tôn vinh bậc thánh hiền của đạo Nho (như sao sáng), vừa khẳng định với hiền sĩ khắp nơi rằng triều đại mới là một triều đại dùng đức để cai trị đất nước.
- Mượn ý trời, xem việc người hiền tài về chầu thiền tử là lẽ đương nhiên, hợp quy luật. Nếu người hiền tài tự giấu mình là trái ý trời. (Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy).
Ngô Thì Nhậm thật cao tay, ông mượn lời thánh hiền và ý trời để tạo ra một cơ sở lí luận chắc chắn cho việc cầu hiền cảu triều đình. Vừa tôn vinh người hiền tài lại vừa tôn vinh hoàng đế (ví vua Quang Trung với ngôi Bắc Thần, gọi ông là thiên tử) đã tạo ra một sự tin cậy cho những người hiền chưa hiểu rõ thời cuộc.
2.Tình hình thực tiễn và khao khát cầu hiền của vua Quang Trung
- Khi thời thế suy vong, nhiều biến cố, tất yếu kẻ sĩ trong thiên hạ phải tìm chỗ ẩn mình.
+ Tác giả dùng nhiều hình ảnh gợi cảm để chỉ tình trạng thất thế loạn lạc của kẻ sĩ (ẩn trong ngòi khe, kiêng dè không dám lên tiếng, gõ mõ canh cửa, ra biển vào sông, chết đuối trên cạn,…). Nhấn mạnh lối sống uổng phí tài năng, không xứng danh là người hiền tài.( biện pháp kích tướng)
+ Thái độ khẩn khoản của nhà vua ( nay trẫm đang lắng nghe, ngày đêm mong mỏi,…), hàng loạt câu hỏi ( hay trẫm ít đức…?Hay đang thời đổ nát…?) có tác dụng kêu gọi sự hợp tác của các hiền tài.
- Thời bình, nước đã có vua, non sông đã có chủ, thay mặt vua, tác giả đưa ra một số công việc bề bộn: Công việc vừa mới mở ra, kỉ cương nơi triều chính, công việc ngoài biên cương, dân còn nhọc nhằn, đức hoá của nhà vua chưa kịp nhuần thấm, một cái cột không thể đỡ nổi một cái nhà,… kể muôn sự khó khăn nhằm tac động vào trách nhiệm của hiền sĩ với non sông đất nước. Những người có tâm đức sẽ không thờ ơ trước tình cảnh này. Kết đoạn, tác giả cũng đưa ra một loạt câu hỏi: Hôm nay trên dãi đất văn hiến rộng lớn này, há trong đó không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?
+ Cả hai đoạn đều có chung một cấu trúc: Kể, liệt kê thực trạng để tìm cách khơi gợi, kích động những người hiền tài có lòng tự trọng, có trách nhiệm. Từ đó kết đoạn là những câu hỏi tu từ xoáy sâu, nhấn mạnh, khích lệ họ đừng chần chừ, ngần ngại nữa, nhanh đưa sức ra giúp dân trị nước.
+ Giọng điệu linh hoạt, khi mạnh mẽ (gợi cái tầm thường trong cuộc sống ẩn dật), khi thì lắng lại, khiêm nhường, thành tâm; khi thì khích lệ, cổ vũ người hiền ra giúp chính quyền buổi đầu…
3. Hướng sử dụng người hiền tài và lời kêu gọi người tài trong thiên hạ ra giúp dân, giúp nước.
- Để đánh tan những phân vân của nhiều hền tài còn nhiều e ngại do chưa hiểu triều đại mới, nhà vua đưa ra hướng sử dụng người hiền tài thật rõ ràng, rộng mở và độ lượng. Đưa ra nhiều biện pháp cụ thể.
- Đối với người có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, lời nói nào dùng được thì cất nhắc, không kể thứ bậc, không dùng thì gác lại, không bắt tội.
- Đối với người có nghề hay nghiệp giỏi, cho phép quan văn, quan võ tiến cử, tuỳ tài sử dụng.
- Đối với những người tài năng còn bị che kín thì dâng sớ tự tiến cử…
Người hiền theo quan niệm của Quang Trung thật toàn diện, không chỉ hướng tới những người giỏi chữ nghĩa mà còn hướng tới những người có tay nghề giỏi. Ông còn khuyến khích người tài tự tiến cử.
- Quan điểm về người hiền tài của nhà vua thât tiến bộ, hiện đại, hợp lòng dân, tạo con đường rộng mở cho người tài ra phò vua trị nước.
- Những lời kêu gọi cuối tác phẩm như một lời hiệu triệu mạnh mẽ, khơi dậy, làm nức lòng kẻ hiền tài bốn bể. Cái lí của triều đình đưa ra là không còn gì thuận lợi hơn nữa ( trời trong sáng, đất thanh bình) cho người tài đức xuất hiện.Thời cơ đã đến cho những ai muốn làm nên nghiệp lớn ( gặp hội gió mây )
III.Tổng kết
Bài chiếu không chỉ cho chúng ta thấy tư tưởng tiến bộ của vua Quang Trung trong việc sử dụng người hiền tài mà còn cho thấy cái tài trong nghệ thuật viết chiếu của Ngô Thì Nhậm. Lời lẽ trong bài vừa có cái trang trọng, cao sang, trí tuệ của kẻ bề trên, lại vừa có cái thành tâm, khiêm nhường, của người có đức đang cầu hiền tài. Bài chiếu là một văn bản chính luận đặc sắc của nần văn học trung đại Việt Nam.
- Tuần 1 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 2 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 3 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 4 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 5 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 6 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 7 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 8 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 9 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 10 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 11 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 12 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 13 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 14 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 15 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 16 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 17 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 18 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 19 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 20 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 21 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 22 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 23 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 24 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 25 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 26 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 27 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 28 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 29 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 30 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 31 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 32 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 33 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 34 sgk ngữ văn lớp 11
- Tuần 35 sgk ngữ văn lớp 11
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo