Bài số 99: Bến quê - Bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu

Không hiểu sao, đã từ lâu, khi đọc Bến quê tôi cứ đinh ninh đây là bản di chúc nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu gửi lại cho đời, được ông viết ngay từ hôm bốn năm trước lúc ra đi, và hơn hai năm trước lúc biết mình bị trọng bệnh - bệnh ung thư máu.

BÀI LÀM

Không hiểu sao, đã từ lâu, khi đọc Bến quê tôi cứ đinh ninh đây là bản di chúc nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu gửi lại cho đời, được ông viết ngay từ hôm bốn năm trước lúc ra đi, và hơn hai năm trước lúc biết mình bị trọng bệnh - bệnh ung thư máu. Trong một dung lượng chữ rất kiệm, chỉ khoảng sáu trang sách (Bến quê có lẽ thuộc trong số những truyện ngắn ngắn nhất của Nguyễn Minh Châu), nhà văn đã gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc, minh triết về cuộc đời con người, chỉ có thể có được khi một người đã đi gần trọn đời mình, nhìn lại và vượt qua mọi ham hố, danh vọng, ảo tưởng, để thấu đạt tới những giá trị đích thực, giản dị và bền vững của cuộc sống.

Cũng như ở nhiều truyện ngắn thành công khác của mình, Nguyễn Minh Châu đã sáng tạo một tình thế đặc biệt trong Bến Quê để đặt nhân vật vào đó mà soi rọi vào thế giới bên trong của họ, làm bật lên vấn đề và tư tưởng của truyện. Tình thế (theo cách gọi của Nguyễn Minh Châu) hay tình huống trong Bến Quê là một hoàn cảnh đầy vẻ nghịch lí. Nhân vật chính của truyện - anh Nhĩ - từng đi khắp mọi nơi trên trái đất, về cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo đến nỗi không thể tự mình dịch chuyển lấy vài mươi phân trên chiếc phản hẹp kê bên cửa sổ.

Nhưng cũng chính vào một buổi sáng trong những ngày cuối của cuộc đời mình từ cửa sổ căn gác, Nhĩ đã nhận ra được ở vùng đất bãi bồi bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ.

Vào cái buổi sáng đầu thu ấy, từ trên chiếc phản hẹp kê bên cửa sổ căn gác nhà mình, Nhĩ đã bắt gặp nơi không gian ngoài kia những cảnh vật vốn quen thuộc lại được hiện ra trong những màu sắc và vẻ đẹp như lần đầu tiên anh được thấy. Những bông hoa bằng lăng thưa thớt cuối mùa như tím thẫm hơn. "Tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn". Và lần đầu tiên Nhĩ đã thấy được vẻ đẹp kì lạ của một vùng bãi bồi: "Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bài bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ nâu vàng xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ". Cánh bãi bồi bên kia sông, một không gian gần cận và quen thuộc vẫn hiện ra phía trước cửa sổ nhà Nhĩ, nhưng anh lại chưa một lần đặt chân đến, dù suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất. Bởi thế, cái bờ bên kia sông Hồng đối với Nhĩ là "một chân trời gần gũi mà lại xa lắc",

Cũng trong những ngày này, khi nằm liệt giường, nhận sự chăm sóc đến từng miếng ăn, ngụm nước của người vợ, Nhĩ mới cảm nhận hết nỗi vất vả, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ mình. Cũng như nhiều nhân vật phụ nữ khác của Nguyễn Minh Châu, Liên - người vợ của Nhĩ - là hiện thân của vẻ đẹp tâm hồn, lòng vị tha và đức hi sinh thầm lặng, khiêm nhường. Những cử chỉ dịu dàng, sự chăm sóc tỉ mỉ, ân cần, những lời động viên và sự thấu hiểu tâm trạng của chồng, rồi tấm áo vá và những bước đi rất nhẹ trên những bậc cầu thang gồ đã mòn lõm - bấy nhiêu chi tiết ấy đã đủ để nhân vật Liên, dù chỉ hiện ra trong chốc lát ở phần đầu của truyện, cũng để lại ấn tượng cho người đọc về một hình tượng đẹp giản dị mà sâu xa. Sau bao nhiêu năm tháng bên tàu, mà cuộc đời là dành cho những chuyến đi khắp mọi chân trời, đến lúc này, ở những ngày tháng cuối của đời mình, Nhi mới thấy và hiểu được nơi bến đậu bình yên, điểm tựa cho cuộc đời anh chính là gia đình, là người vợ suốt đời tần tảo, thầm lặng. Nhĩ nói với Liên bằng cả lòng biết ơn xen lẫn niềm ân hận: "suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm... mà em vẫn nín thinh", Và Liên đã trả lời: "có hề sao đâu... miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này.

Trong cái buổi sáng có lẽ là cuối cùng của đời mình, Nhĩ vô cùng khao khát được một lần đặt chân tới bờ bãi bên kia sông, cái miền đất thật gần gũi nhưng đã trở nên rất xa vời đối với anh. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống - những giá trị thường bị người ta bỏ quên, nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến. Sự thức nhận này chỉ đến với người ta ở cái độ đã từng trải, với Nhĩ đó là lúc cuối đời, khi phải nằm liệt giường bệnh. Đây lại là một nghịch lí trớ trêu của cuộc đời: Khi nhận ra được những giá trị đích thực và giản dị của đời sống, thì người ta lại không còn thời gian và khả năng để có thể đạt tới được. Bởi thế, ở Nhĩ đó là sự thức tính có xen với niềm ân hận và nỗi xót xa. Không thể nào làm được cái điều mình khao khát, Nhĩ đã nhờ đứa con thấy mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên cái bãi phù sa màu mỡ. Nhưng ở đây anh gặp một nghịch lí nữa: đứa con không hiểu được ước muốn của cha, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi có thể lỡ chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày. Từ sự việc ấy, Nhĩ đã nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người: "con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình". Anh không trách đứa con trai bởi vì "nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết".

Ở đoạn kết, khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này sông, Nhĩ đã làm một cử chỉ có vẻ kì quặc, nhưng với anh dường như là điều vô cùng hệ trọng và khẩn cấp: "Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để thu mình nhỏ người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó". Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Những hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn. Đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.

Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 đều là những quan sát, chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Ngòi bút Nguyễn Minh Châu hướng vào đời sống thế sự, nhân sinh thường ngày, để phát hiện nhưng chiều sâu của đời sống với bao nhiêu quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp trong những cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của xã hội và của chính tác giả. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là những cuộc đối chứng với quan niệm và nhận thức cũ, để nhận ra và thấu hiểu cái điều mà tác giả gọi là "cuộc đời vốn đa sự, con người thì đa đoan". Điều đặc sắc trong Bến quê là ở chỗ triết lí của truyện là những chiêm nghiệm thâm trầm mà giản dị, mang ý nghĩa tổng kết của một đời người, chỉ có thể có được dưới ngòi bút một nhà văn thực sự thấu hiểu lẽ đời, tình đời, không chỉ sống nhiều mà còn có năng lực nghiệm sinh sâu sắc.

Tạo nên thành công đặc sắc của truyện không phải chỉ do những triết lí thâm trầm đã phân tích ở trên, mà còn bởi một nghệ thuật viết truyện già dặn của tác giả: từ ngòi bút miêu tả thiên nhiên đến miêu tả và phân tích tâm lí đều hết sức tinh tế, sáng tạo tình huống chứa đựng nhiều ý nghĩa, sử dụng nhiều hình ảnh và chi tiết nghệ thuật mang ý nghĩa biểu tượng. Sáng tạo hình ảnh biểu tượng vốn là một sở trường của ngòi bút Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là trong truyện ngắn. Ở Bến quê, hầu như mọi hình ảnh chi tiết đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất, khiến cho các hình ảnh không bị tước đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm để chỉ còn là hình ảnh ước lệ. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực, nhưng phải xem xét trong cả hệ thống hình ảnh và chỉ có thể toát lên khi đặt vào sự quy chiếu của chủ đề tác phẩm.

Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này, khi cơn lũ đầu nguồn đã dồn về, đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng, hai chi tiết này gợi ra cho biết sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng. Hình ảnh bãi bồi bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được dựng lên trong truyện thực ra cũng mang một ý nghĩa khái quát, biểu tượng. Đó là vẻ đẹp của đời sống trong những cái gần gũi, bình dị thân thuộc như một bến sông quê, một bãi bồi... rộng ra là quê hương, xứ sở.

Chi tiết đứa con trai của Nhĩ sa vào đám chơi phá cờ thế bên đường và hình ảnh Nhĩ với những động tác, cử chỉ khác thường ở cuối truyện đều mang ý nghĩa biểu tượng rất rõ. Việc sử dụng đậm đặc các hình ảnh và chi tiết biểu tượng làm cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu chứa đựng nhiều tư tưởng và ý nghĩa sâu rộng hơn ý nghĩa thực của những cái được miêu tả, lại có khả năng gợi mở nhiều liên tưởng suy ngẫm ở người đọc.

Hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu đã đột ngột dừng lại lúc tài năng và tư tưởng của nhà văn đạt tới độ chín, cũng là khi công cuộc đổi mới văn học nước ta mới bước vào chặng đầu. Trong cuộc Hội thảo tưởng niệm Nguyễn Minh Châu nhân ngày giỗ đầu của ông, nhà văn Nguyễn Ngọc đã tôn vinh Nguyễn Minh Châu "thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay". Trong con người và mỗi trang sách của Nguyễn Minh Châu, dưới cái vẻ khiêm nhường, thâm trầm, giản dị luôn cháy sáng một ngọn lửa nồng đượm - ngọn lửa được thắp lên từ khát vọng tìm kiếm sự thật và tinh thần nhân bản bền vững, tình yêu thương con người đến khắc khoải như một mối quan hoài. Ngọn lửa ấy vẫn tiếp tục tỏa được ánh sáng và truyền sức nóng của nó đến với các thế hệ người đọc.

Các bài học liên quan
Bài số 91: Những vang âm trong Lặng lẽ Sa Pa (Cảm xúc khi đọc Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long)
Bài số 90: Anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long đã gây rất nhiều thiện cảm cho người đọc. Em có cảm nhận gì về nhân vật này?

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 9 mới cập nhật