TỨC NƯỚC VỠ BỜ (Trích Tắt đèn - Ngô Tất Tố)
Cảnh Tức nước vỡ bờ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu. Trong hoàn cảnh đáng thương, chị vẫn là người vợ, người mẹ giàu tình thương chồng con... Nhưng chị cũng là người đàn bà cứng cỏi. Đã dám chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng
- Bài học cùng chủ đề:
- ĐỀ 62. Qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, em hiểu thế nào về cuộc đời và tính cách của con người nông dân trong xã hội cũ?
- Tóm tắt đoạn trích Tức nước vỡ bờ (Tắt đèn - Ngô Tất Tố)
- Soạn bài Tức nước vỡ bờ
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG
Cảnh Tức nước vỡ bờ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu. Trong hoàn cảnh đáng thương, chị vẫn là người vợ, người mẹ giàu tình thương chồng con... Nhưng chị cũng là người đàn bà cứng cỏi. Đã dám chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng.
Đối lập với nhân vật chị Dậu là bọn cai lệ, tên hầu cận lí trưởng, là đầu trâu, mặt ngựa với tay thước, roi song, dây thừng xông vào nhà chị, chúng tưởng sẽ làm mưa làm gió, nhưng đã bị một sự chống trả quyết liệt của chị Dậu.
Đoạn trích là một màn bi hài kịch, xung đột diễn ra rất căng thẳng và đầy kịch tính. Hình ảnh chị Dậu trong đoạn trích cho ta thấy chân dung người phụ nữ trong văn học đã có bước phát triển mới về tâm hồn và chí khí.
II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)
Câu 1. Khi bọn tay sai xông vào nhà, chị Dậu ở trong tình thế rất thảm thương:
+ Chị mới vừa rón rén bưng bát cháo cho chồng và đang hồi hộp “chờ xem chồng chị có ăn ngon miệng không”.
+ Anh Dậu vừa run rẩy bưng bát cháo chưa kịp húp thì hai tên tay sai đã "sầm sập tiến vào" trong tay đầy những roi song, tay thước và dây thừng.
Câu 2. Phân tích nhân vật cai lệ. Nhận xét về tính cách của nhân vật này và sự miêu tả của tác giả:
- Cai lệ là một tên tay sai chuyên nghiệp rất thạo nghe làm tay sai:
+ Là cai, cầm đầu đám lính lệ ở huyện đường (loại lính chuyên làm tay sai hầu hạ chốn quan nhà chứ không phải lính chiến đấu).
+ Hắn là hạng người tiêu biểu của hạng tay sai, công cụ đắc lực của trật tự xã hội lúc bấy giờ.
- Tên cai lệ được phái về làng Đông Xá để giúp lí trưởng làng này đốc thuế:
+ Hắn rất mẫn cán, thường lăm lăm cầm roi song theo gã người nhà lí trưởng vào những nhà có người thiếu thuế để quát nạt, chửi bới, đánh trói.
+ Đánh trói là “nghề” của hắn, hắn làm có kĩ thuật, thành thạo.
+ Hắn là sản phẩm được đào tạo đúng quy cách của chế độ tàn bạo đó. Chế độ ấy rất cần những hạng người, những tư cách ấy.
Hôm trước, ở đình làng, tên phó lí Đông Xá đã bảo hắn: “Sao ông không giã cho nó (chị Dậu) một mẻ. Ông lí tôi mời ông về đây chỉ có thế".
+ Trong kỳ sưu thuế giống như một cuộc săn thú này, cai lệ là một con chó săn hung dữ, rất được việc! Dường như toàn bộ ý thức của hắn lúc này chỉ là ra tay trừng trị kẻ thiếu thuế.
Vừa “sầm sập” xông vào nhà chị Dậu cùng người nhà lí trưởng, hắn đập roi xuống đất, quát thét ra oai, rất hống hách và đều căng “thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau! Anh Dậu vừa chết đi sống lại, hắn đâu thèm để ý. Mà nếu anh Dậu chết đêm qua thì chính hắn phải là người chịu trách nhiệm trước tiên, chứ không phải ai khác. Vì chính tay hắn hôm trước đã trói gô anh rất chặt, trước những lời van xin của chị Dậu mong hắn tha cho anh, hắn đáp lại bằng thái độ hết sức phũ phàng.
Mở miệng, hắn chỉ thét, quát, hầm hè, tức là “ngôn ngữ” của thú dữ chứ đâu phải tiếng nói của con người!
Và hắn cũng cố không nghe người khác nói nên mới không cho lọt vào tai bất cứ một lời nào của chị Dậu, để cuối cùng, chị Dậu hoảng sợ quá, van xin hắn: “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!” thì hắn đã đáp lại bằng thứ ngôn ngữ riêng của hắn, tàn ác và đểu giả:
“Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu”.
- Trong cái đám đông tay sai của quan phủ, lí trưởng, cai lệ chỉ là một nhân vật “chạy cờ”, một gã tay sai mạt hạng, vô danh. Nhưng bộ mặt hung dữ, đểu cáng của hắn vẫn có một giá trị tiêu biểu riêng: hắn là một thứ “thiên lôi”, một cái búa sắt trong tay bọn thống trị, tức là tiêu biểu cho chức năng đàn áp của cái chế độ tàn bạo ăn thịt người. Hắn dữ tợn, gây tội ác không hề chùn tay nhưng tất cả đều nhân danh “nhà nước”, “phép nước”. Vì vậy, có thể nói, tên cai lệ không chút tình người đó chính là hiện tượng đầy đủ, “thật thà” nhất của cái trật tự tàn bạo dã man đương thời.
Câu 3. Phân tích diễn biến tâm lí chị Dậu trong đoạn trích. Theo em, sự thay đổi thái độ của chị Dậu được miêu tả chân thực, hợp lí. Nhận xét về tính cách của chị Dậu.
* Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu:
- Khi hai tên tay sai sầm sập tiến vào, nỗi nguy đã ập đến. Vấn đề đặt ra với chị Dậu khi đó là sự sống chết của chồng:
+ Anh Dậu ốm yếu đã quá khiếp đảm “lăn đùng ra đỡ, không nói được câu gì”.
+ Chị Dậu đã phải một mình ra đối phó với chúng để bảo vệ chồng.
- Lúc này, vận mạng của anh Dậu là ở trong tay của chị. Tình thế thật là hiểm nghèo, nhưng chính trong tình huống hiểm nghèo ấy, hình ảnh chị Dậu đã nổi bật lên với những phẩm chất thật bất ngờ:
+ Ban đầu, chị cố "thiết tha" van xin bọn chúng. Trong tình thế của chị lúc ấy, chị chỉ có cách van xin. Chúng có những hai tên rất hung hãn, tay lăm lăm “những roi song, tay thước và dây thừng” - toàn những thứ để đánh, trói người. Và điều quan trọng hơn, chúng là “người nhà nước”, nhân danh “phép nước” để trị những kẻ có tội. Mà anh Dậu chính là kẻ “có tội” hiển nhiên: đang thiếu thuế (dù chỉ là thiếu suất thuế của “chú Hợi” đã chết từ năm ngoái). Vợ chồng chị, những người nông dân cùng khổ, xưa nay hầu như chỉ biết an phận, đâu cưỡng lại “phép nước” được.
+ Nhưng khi tên cai lệ đáp lại những lời van xin thống thiết lễ phép của chị Dậu bằng “trợn ngược hai mắt” quát, thét, bằng những quả bịch vào ngực chị Dậu và cứ chồm đến anh Dậu, thì chỉ đến lúc ấy “hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại”.
- Sự “liều mạng cự lại” của chị Dậu cũng có hai bước mức độ khác nhau. Thoạt tiên chị “cự lại” bằng lí:
+ “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Kì thực, chị Dậu đâu biết đến luật pháp cụ thể, chị chỉ nói lí lẽ tự nhiên, nguyên tắc đạo lí tối thiểu của con người. Tư thế của chị Dậu lúc này khác hẳn trước: không phải là một kẻ bề dưới cúi đầu van xin, mà là tư thế người ngang hàng, đanh thép cảnh cáo kẻ ác.
+ Nhưng khi cái tên cai lệ hung dữ như chó sói ấy đã quay lại "tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu", thì chị Dậu đã bật dậy với sức mạnh ghê gớm bất ngờ. Chị Dậu “nghiến hai hàm răng” (biểu hiện của sự nổi giận cao độ, không nén nổi) và ném ra lời thách thức quyết liệt, dữ dội: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Không còn dấu lí nữa, chị quyết ra tay đấu lực với bọn ác ôn này.
- Chị Dậu đã ra tay với sức mạnh của sự căm thù, phẫn nộ:
+ “Túm lấy cổ” tên cai lệ, “ấn dúi ra cửa” làm cho "hắn ngã chỏng quèo”.
* Nhận xét:
Hành động của chị Dậu hiển nhiên là liều lĩnh, cô độc và tự phát; trước sau, chị vẫn chỉ là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh, vì vậy lời anh Dậu khuyên can vợ là cái sợ “cố hữu” của anh.
Những từ ngữ miêu tả và giọng văn pha chút hài hước của tác giả ở đây đã làm nổi bật sức mạnh ghê gớm của chị Dậu và hình ảnh bất lực thảm hại của tên cai lệ khi bị chị “ra đòn” bất ngờ.
Chúng ta cùng đồng tình với thái độ của chị Dậu. Ta thấy ở chị là con người đáng thương và đáng kính nể ("Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.)
Câu 4. Em hiểu về nhan đề Tức nước vỡ bờ đặt cho đoạn trích.
- Qui luật là “Có áp bức, có đấu tranh”. Hành động của chị Dậu xuất phát từ một quy luật: “Con giun xéo lắm cũng quằn”. Vì vậy, đặt nhan đề Tức nước vỡ bờ cho đoạn trích là thỏa đáng vì đoạn trích nêu những diễn biến phù hợp với cái cảnh Tức nước vỡ bờ.
Mặc dù tự phát, song hành động của chị Dậu cho thấy sức mạnh tiềm tàng của người nông dân. Sức mạnh ấy bắt nguồn từ ý thức nhân phẩm, từ tình yêu thương. Đây là đoạn văn sảng khoái nhất trong hơn một trăm trang Tắt đèn..
Câu 5. Chứng minh nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”.
Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo vì sự phát triển rất phù hợp với lôgic và tính cách nhân vật.
Tình thế đặt chị Dậu trước sự lựa chọn: hoặc là để yên cho chúng giày xéo hoặc đứng lên chống lại chúng. Chị đã vùng dậy một cách quyết liệt.
- Lúc đầu, làm sự nhịn nhục của kẻ dưới, chị cố "thiết tha" van xin. Van xin là cách duy nhất để mong hai tên tay sai tha cho anh Dậu.
- Trước sự đểu giả và tàn bạo của cai lệ, chị liều mạng cự lại vì "tức quá không thể chịu được”.
+ Không còn van xin (mà có van xin cũng vô ích), chị đấu lí:
“Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô cho thấy chị không còn “nằm yên” trong tư cách kẻ dưới mà trở thành ngang hàng.
+ Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem. Chị Dậu đã chuyển sang một tư thế khác: bà - mày. Đó là tư thế của kẻ bề trên. Sự căm giận, khinh bỉ kẻ thù đã lên tới tột độ. Trong màn đấu lực, chị đã thắng.
+ Vì vậy nhà phê bình Vũ Ngọc Phan mới nhận xét cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo.
Câu 6. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng với tác phẩm Tắt đèn - Ngô Tất Tố đã “xui người nông dân nổi loạn”. Làm rõ ý kiến trên.
- Tắt đèn đã làm toát ra một chân lí: quần chúng nghèo khổ bị áp bức chỉ có một con đường sống là vùng dậy đấu tranh để tự cứu, không có con đường nào khác. Như vậy chẳng phải là “xui người nông dân nổi loạn” hay sao? Đó cũng chính là “dư vị chính trị” của Tắt đèn.
Có thể nói tiểu thuyết Tắt đèn hầm hập không khí oi bức trước cơn bão, chính là sự thể hiện nghệ thuật sinh động các quy luật của hiện thực nông thôn đương thời. Nguyễn Tuân không thái quá khi nói rằng: tác giả Tắt đèn đã “xui người nông dân nổi loạn”.
III. BÀI VĂN THAM KHẢO
Trình bày suy nghĩ của em đối với nhân vật chị Dậu sau khi đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố.
Bài làm
Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thân, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tố đã phản ánh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày "sưu thuế giới kì" này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.
Với số trang hạn chế, nhưng Tắt đèn đã mô tả khá đầy đủ mọi mặt của những lực lượng thống trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đây là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ nhờ có dịp "đục nước" để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên, bòn rút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ "đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh", vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư n. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tố bằng ngòi bút thâm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân - tác giả của những tấm thẻ sưu. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.
Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ vẻ người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn. Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là "tất cả của Tắt đèn".
Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị "đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa... Viết về số phận của phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tố đã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo, quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.
Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thông, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp, nết na.. Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương, trân trọng.
Chị Dậu - một phụ nữ có tấm lòng vị tha, yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tay sai.., cũng làm cho người đọc yêu mến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.
Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quần, buộc phải bán đứa con đầu, chị như cắt đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đói với “sợi dây thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tí.
Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều… Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt...
Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua - phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại… tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.
Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư n. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.
Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm... nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sống ở nơi tăm tối bị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Tóm lại, bằng thái độ trân trọng của sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi đau xót, đặc biệt với những phẩm chất trong sạch. Chính những yếu tố tích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muốn “tung ra khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuân), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thống.
Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vật chính diện đẹp người, đẹp nết., tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn... tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh...).
Nhân vật trong Tắt đèn phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.
- Bài 1 sgk ngữ văn 8
- Bài 2 sgk ngữ văn 8
- Bài 3 sgk ngữ văn 8
- Bài 4 sgk ngữ văn 8
- Bài 5 sgk ngữ văn 8
- Bài 6 sgk ngữ văn 8
- Bài 7 sgk ngữ văn 8
- Bài 8 sgk ngữ văn 8
- Bài 9 sgk ngữ văn 8
- Bài 10 sgk ngữ văn 8
- Bài 11 sgk ngữ văn 8
- Bài 12 sgk ngữ văn 8
- Bài 13 sgk ngữ văn 8
- Bài 14 sgk ngữ văn 8
- Bài 15 sgk ngữ văn 8
- Bài 16 sgk ngữ văn 8
- Bài 17 sgk ngữ văn 8
- Bài 18 sgk ngữ văn 8
- Bài 19 sgk ngữ văn 8
- Bài 20 sgk ngữ văn 8
- Bài 21 sgk ngữ văn 8
- Bài 22 sgk ngữ văn 8
- Bài 23 sgk ngữ văn 8
- Bài 24 sgk ngữ văn 8
- Bài 25 sgk ngữ văn 8
- Bài 26 sgk ngữ văn 8
- Bài 27 sgk ngữ văn 8
- Bài 28 sgk ngữ văn 8
- Bài 29 sgk ngữ văn 8
- Bài 30 sgk ngữ văn 8
- Bài 31 sgk ngữ văn 8
- Bài 32 sgk ngữ văn 8
- Bài 33 sgk ngữ văn 8
- Bài 34 sgk ngữ văn 8
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo