TỨC CẢNH PÁC BÓ - Hồ Chí Minh
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình hơn 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về lí tưởng cao đẹp.
- Bài học cùng chủ đề:
- ĐỀ 68. Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung tự tại của Hồ Chí Minh trong “Tức cảnh Pác Bó”
- Soạn bài Tức cảnh Pác Bó - Ngắn gọn nhất
- Soạn bài Tức cảnh Pác Bó
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Hồ Chí Minh bí mật về Pác Bó (Cao Bằng).
Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật đầy khó khăn, gian khổ.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình hơn 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về lí tưởng cao đẹp.
II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)
Câu 1.
- Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
- Một số bài thơ cùng thể thơ với bài thơ trên là Cảnh khuya, Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng).
Câu 2. Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ:
- Câu thơ đầu có giọng điệu thoải mái, cho thấy Bác Hồ sống thật ung dung, đồng điệu với nhịp sống của núi rừng Pác Bó:
Sáng ra bờ suối tối vào hang.
Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai vế sóng đôi, gợi cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng - tối, ra - vào.
- Câu thơ thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc đó nhưng có thêm nét tươi vui, thích thú. Đó là sự sẵn sàng của các loại thức ăn thường nhật:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
- Hai câu thơ đầu nói về sinh hoạt thường ngày của Bác trong ăn ở. Câu thơ thứ ba cũng diễn tả sinh hoạt đó nhưng ở một khía cạnh khác:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Câu thơ trên thể hiện hơn nữa sự thích thú của Bác với điều kiện sinh hoạt tại Pác Bó, đồng thời cũng làm nổi bật hình ảnh người chiến sĩ cách mạng trên chiến khu. Giọng điệu thơ khỏe khoắn và nhiều ấn tượng.
Từ láy duy nhất trong bài thơ: chông chênh gợi một khung cảnh vừa mạo hiểm vừa gợi cảm, tạo cho người đọc chút tò mò. Ba chữ dịch sử Đảng toàn vần trắc làm cho lời thơ thêm mạnh mẽ. Trung tâm của bức tranh Pác Bó là hình tượng người chiến sĩ cách mạng vừa chân thực, sinh động vừa mang một sứ mệnh lớn lao, một tư thế uy nghi giống như một tượng đài về tinh thần cách mạng. Dịch sử Đảng ở đây là sử Đảng Liên Xô, đó chính là khởi nguồn cho thắng lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
- Câu thơ cuối cùng toát lên được tinh thần của toàn bài thơ:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Sang ở đây hoàn toàn không phải là sang trọng theo cách hiểu hiện đại mà chính là sự sang trọng trong chính lối sống, sinh hoạt, làm việc và sự cống hiến của người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ trên không thuyết minh cho toàn bài thơ nhưng đã làm cho bài thơ có một sức hấp dẫn kì lạ. Sức hấp dẫn ấy đến từ giọng điệu của câu thơ và toàn bài thơ.
Câu 3. Sự giống nhau và khác nhau giữa thú lâm tuyền của Nguyễn Trãi và Bác Hồ:
- Giống nhau: Cả Nguyễn Trãi và Bác Hồ đều thể hiện sự gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với phong cách sống ung dung, tự tại, coi thường cuộc sống vật chất, chú trọng sự cao sang về đời sống tinh thần.
- Khác nhau:
+ Nguyễn Trãi tìm về thú lâm tuyền là vì cuộc đời nhiễu nhương từ bỏ công danh phú quý, lánh đục về trong để giữ mình cho trong sạch. Nguyễn Trãi là một ẩn sĩ.
+ Bác Hồ tìm về chốn lâm tuyền là để hoạt động cách mạng, tìm cách cứu dân tộc, cứu đất nước ra khỏi vòng nô lệ lầm than. Bác Hồ là một chiến sĩ.
III. BÀI VĂN THAM KHẢO
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh.
Bài làm
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về Pác Bó (Cao Bằng). Giây phút thiêng liêng và cảm động ấy đã được nhà thơ Tố Hữu ghi lại:
Ôi sáng Xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...
(Theo chân Bác)
Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật đầy khó khăn, gian khổ.
Câu thơ mở đầu gợi lên cuộc sống hoạt động bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu mới về nước đang “nhóm lửa”. Hai vế tiểu đối đầy ấn tượng.
Sáng ra bờ suối, tôi vào hang.
Câu thơ có thời gian, không gian và hành động. Thời gian là “sáng” và “tối”; không gian là “suối” và “hang”; hoạt động là “ra” và “vào”. Mọi hoạt động đã trở thành nề nếp, từ sáng đến Lối, từ suối đến hang, từ ra đến vào, khi cách mạng còn trứng nước, hoạt động chính trị gây dựng phong trào là chính, còn bí mật và nhiều khó khăn. Người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc đã sống và làm việc tại Pác Bó: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Quy luật vận động ấy thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.
Câu thơ thứ hai, ba chữ “vẫn sẵn sàng” có hai cách hiểu khác nhau rất lí thú. Sống và hoạt động bí mật nơi núi rừng, hang động chỉ có cháo bẹ rau măng nhưng sẵn có, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người lão thực, gian khổ khó khăn vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, ý tưởng “giàu có hào phóng” ấy được Người nhắc lại trong bài Cảnh rừng Việt Bắc đầu xuân 1947.
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thì chén thịt rừng quạy
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt, chê tươi mặc sức say...
"Vẫn sẵn sàng”, “tha hồ dạo”, “mặc sức say”... là những cách nói “sang trọng” mà hóm hỉnh và yêu đời.
Cách hiểu thứ hai: Mặc dù thiếu thốn khó khăn, phải ăn cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hãng say, vẫn nhiệt tình. Gian khổ biết bao, nhưng với tinh thần vẫn sẵn sàng, Người vẫn bền bỉ sáng niềm tin “nhóm lửa”.
Ai hay ngọn lửa trong hang núi
Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau
(Theo chân Bác)
Khác với người xưa, “công thành, thân thoái”, mai danh ẩn tích ở chốn lâm tuyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Đất nước cần, Bác viết Đường cách mệnh. Phong trào và cán bộ cần Người “dịch sử Đảng”. Hình ảnh “bàn đá chông chênh” không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà còn biểu lộ tinh thần phấn đấu hi sinh vì sự thắng lợi của cách mạng.
Câu cuối bài thơ đọc lên nghe rất thú vị. Một câu cảm thán vang xa:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
“Sang” nghĩa là sang trọng, cao sang. Một cách nói, một lối sống, một quan niệm nhân sinh và ứng xử tuyệt đẹp. Vượt lên trên gian khổ, khắc nghiệt là “sang”. Chỉ có “cháo bẹ rau măng”, chỉ có “bàn đá chông chênh” mà vẫn “sang”. Sang vì lạc quan tin tưởng về con đường cách mạng đánh đuổi Nhật, đuổi Tây nhất định thắng lợi. Sang vì lí tưởng, vì đời sống tâm hồn phong phú, vì ung dung tự tại. Nhà thơ Tố Hữu đã có vần thơ rất hay nói về cái sang của Bác Hồ kính yêu:
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
(Bác ơi!)
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về lí tưởng cao đẹp.
- Bài 1 sgk ngữ văn 8
- Bài 2 sgk ngữ văn 8
- Bài 3 sgk ngữ văn 8
- Bài 4 sgk ngữ văn 8
- Bài 5 sgk ngữ văn 8
- Bài 6 sgk ngữ văn 8
- Bài 7 sgk ngữ văn 8
- Bài 8 sgk ngữ văn 8
- Bài 9 sgk ngữ văn 8
- Bài 10 sgk ngữ văn 8
- Bài 11 sgk ngữ văn 8
- Bài 12 sgk ngữ văn 8
- Bài 13 sgk ngữ văn 8
- Bài 14 sgk ngữ văn 8
- Bài 15 sgk ngữ văn 8
- Bài 16 sgk ngữ văn 8
- Bài 17 sgk ngữ văn 8
- Bài 18 sgk ngữ văn 8
- Bài 19 sgk ngữ văn 8
- Bài 20 sgk ngữ văn 8
- Bài 21 sgk ngữ văn 8
- Bài 22 sgk ngữ văn 8
- Bài 23 sgk ngữ văn 8
- Bài 24 sgk ngữ văn 8
- Bài 25 sgk ngữ văn 8
- Bài 26 sgk ngữ văn 8
- Bài 27 sgk ngữ văn 8
- Bài 28 sgk ngữ văn 8
- Bài 29 sgk ngữ văn 8
- Bài 30 sgk ngữ văn 8
- Bài 31 sgk ngữ văn 8
- Bài 32 sgk ngữ văn 8
- Bài 33 sgk ngữ văn 8
- Bài 34 sgk ngữ văn 8
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo