Phân tích truyện Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ
Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện bi thảm về số phận một người con gái đẹp nết đẹp người, bị oan ức phũ phàng đến nỗi phải tìm cái chết để giải tỏ.
- Bài học cùng chủ đề:
- Phân tích giá trị hiện thực của đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ).
- Bài số 128: Câu chuyện về tiếng kêu cứu của môi trường.
- Bài số 127: Người thầy của tuổi thơ.
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
Chuyện người con gái Nam Xương là một chuyện truyền kì trong tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ - người huyện Trường Tân (nay là huyện Ninh Giang), tỉnh Hải Dương. Tuy chưa rõ năm sinh, năm mất, nhưng được biết ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống vào khoảng thế kỉ XVI, từng đi thi đỗ và từng làm quan một năm, rồi xin về ở ẩn nhiều năm vùng thượng du Thanh Hóa. Tuy vậy ông vẫn tỏ ra quan tâm đến xã hội và sáng tác Truyền kì mạn lục với 20 thiên truyện truyền kì được coi là “thiên cổ kì bút” (bút lạ muôn đời) của văn xuôi chữ Hán để lại cho đời. Truyền kì mạn lục là tác phẩm văn xuôi xuất hiện vào loại sớm trong kho tàng văn học Việt Nam. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong 11 sáng tác viết về đề tài người phụ nữ và là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của Truyền kì mạn lục. Đây là một truyện ngắn bằng chữ Hán giàu tính nhân văn, nói về số phận có tính bi kịch của người phụ nữ trong chế độ gia tộc phụ quyền - thời phong kiến. Nguyễn Dữ đã sáng tác truyện ngắn này trên cơ sở của một truyện cổ tích Việt Nam có nhan đề Vợ chàng Trương mà sau này nhà sưu tập Nguyễn Đổng Chi đã đưa vào tập Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Tại huyện Nam Xương (nay là huyện Lí Nhân) tỉnh Hà Nam, ở xã Vũ Điện và ba xã gần đó vẫn còn đền thờ. Người con gái Nam Xương có tên thật là Vũ Thị Thiết, thường gọi Vũ Nương. Vua Lê Thánh Tông thế kỷ XV và nhiều nhà thơ các thế kỉ tiếp nối từng đến thăm nơi đây và từng để lại nhiều bài thơ viếng Vũ Nương khá đặc sắc. Điều đó chứng tỏ sự phổ biến của một truyện truyền kì và tính chất bản địa của một truyện ngắn hay đất Việt. Chuyện người con gái Nam Xương đã được nhiều tác giả viết bài hướng dẫn giảng dạy và bình văn tác phẩm khá sôi nổi. Sách Bình giảng tác phẩm văn học 9 xin góp thêm một hướng tiếp cận trong việc dạy, học và thưởng thức tác phẩm xuất sắc này.
Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện bi thảm về số phận một người con gái đẹp nết đẹp người, bị oan ức phũ phàng đến nỗi phải tìm cái chết để giải tỏ. Câu chuyện vừa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, vừa tiếc thương cho số phận bi thảm của người phụ nữ bất hạnh. Đây chính là tấn bi kịch trong một gia tộc phụ quyền dưới xã hội cũ. Nguyên nhân trực tiếp của tấn bi kịch là thói ghen tuông mù quáng của một gã đàn ông đã nhấn chìm hết mọi niềm hy vọng, tin yêu của một người phụ nữ đức hạnh, khiến nàng chỉ còn cách đi tìm cái chết để giải tỏa lòng mình. Nhưng nguyên cớ sâu xa của tấn bi kịch lại nảy sinh từ mâu thuẫn giữa sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nhân vật Vũ Nương với sự chưa hoàn hảo trong tính cách nhân vật Trương Sinh. Ở Vũ Nương mọi cái chân, thiện, mĩ đều đạt đến điểm đỉnh.
Nàng hoàn hảo ngay ở tuổi dậy thì. Nguyễn Dữ giới thiệu về nàng chỉ bằng vài nét mà gợi tả đầy đủ: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Theo Từ điển Tiếng Việt (bản in 1992) thì thùy mị là sự dịu dàng, hiền hậu, biểu hiện ở nét mặt, cử chỉ, cách nói năng, còn nết na là tốt nết, dễ mến. Còn tư dung tốt đẹp tức là vẻ đẹp cân đối hài hòa của người con gái đang độ tươi thắm nhất của tuổi trăng tròn. Chỉ qua vài nét chấm phá ấy, người đọc cũng có thể hình dung cô gái Vũ Thị Thiết khi ấy đẹp người đẹp nết đến mức khó có thể miêu tả bằng bút mực. Nàng là một cô gái hoàn hảo của làng quê. Một bông hoa đầy hấp dẫn giữa vườn biếc. Và chính sự hoàn hảo ấy mà Trương Sinh tuy có “mến về dung hạnh” song cũng đã dám bỏ ra một trăm lạng vàng “mua” nàng về làm vợ.
Đến lúc được làm vợ, Vù Nương cũng tỏ ra một người vợ rất mực hoàn hảo. Mặc dù Trương Sinh “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” nhưng nàng “cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Thử hỏi để làm được điều đó, để giữ được hòa khí giữa vợ chồng, Vũ Nương phải “giữ gìn khuôn phép”, phải ứng xử khéo léo mọi nơi mọi lúc cẩn trọng đến mức thế nào. Nàng đã tỏ ra quá hoàn hảo trong việc giữ hòa khí vợ chồng khỏi bị thất hòa.
Đến lúc Trương Sinh đi lính, Vũ Nương một mình nuôi dưỡng mẹ chồng, dạy dỗ con thơ, làm nhiệm vụ người con dâu, người mẹ trẻ cũng hết sức hoàn hảo. Khi mẹ chồng ốm, “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần Phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Đến khi bà cụ mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu ma chay như đối với cha mẹ đẻ mình”. Xưa nay một người con gái đi làm dâu phụng dưỡng lo liệu cho mẹ chồng được như nàng phỏng có mấy người? Còn đối với con thơ “sau khi xa chồng vừa đầy tuần” nàng mới sinh con trai, “đặt tên là Đản”, một cái tên có nghĩa vui mừng, tốt đẹp. Nàng coi đứa con là niềm vui, là nguồn hạnh phúc để giúp nàng trụ vững giữa những ngày vắng chồng đơn chiếc. Nhưng tình cảm vợ chồng đối với nàng thật là sâu nặng, vì nàng chỉ có một nguyện ước duy nhất là “nghi gia nghi thất”, được làm vợ, làm mẹ cho đến suốt đời, và khi chồng ra đi, nàng “chẳng dám mong đợi được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Nguyện ước của nàng là một nguyện ước bình thường, của một người phụ nữ nơi thôn dã bình thường và đó cũng là một nguyện ước dễ hiểu. Cho nên lòng nàng thấm đẫm yêu thương: “Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Và để giải nỗi nhớ chồng nàng lấy việc chơi với con làm khuây, rồi dưới ánh đèn, đêm đêm, nàng lại “trở bóng mình mà bảo là cha Đản”, một là để cho con biết nó có bố, nhưng cái chính là để khỏa lấp đi nỗi buồn đơn chiếc khi chồng đi xa. Tình cảm của nàng đối với Trương Sinh thật là hoàn hảo. Anh chàng con nhà hào phú ít học kia thật đã có được một người vợ tuyệt hảo đến mức nằm mơ cũng không thể hơn được. Mặc dù Trương Sinh phải đi lính xa nhà, nhưng quả thật vợ anh ta ở giữa làng quê đã được đâm bảo bằng vàng, thậm chí được bảo đảm hơn cả vàng nữa. Điều này đã được chính mẹ Trương Sinh xác nhận: “Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban phúc đức, giống đồng tươi tốt, con cháu đông đàn, Sinh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Xưa nay cùng hiếm có lời xác nhận tốt đẹp của mẹ chồng đối với nàng dâu. Điều đó chứng tỏ Vũ Nương là một nhân vật có phẩm hạnh hoàn hảo, trọng đạo nghĩa làm vợ, làm dâu và làm mẹ. Ở nàng, mọi cái đều sáng tỏ, đều hoàn hảo đến mức tuyệt vời.
Vậy mà nàng đã bị chính Trương Sinh (người chồng nàng hết mực yêu thương, đằng đẵng đợi chờ) rũ bỏ tất cả chỉ vì thói đa nghi, thói ghen tuông mù quáng, chỉ vì tin theo lời một đứa trẻ thơ đang tập nói, mặc dù nàng đã biện bạch và họ hàng làng xóm cũng phân giải giúp cho. Ở đây Nguyễn Dữ đã tỏ ra rất sành miêu tả tâm lý nhân vật. Trương Sinh ghen tuông mù quáng đến mức không thể để cho vợ có cơ hội “chạy tội” nên nhất định giấu cả tên người tố cáo vốn chỉ là một đứa trẻ đang tập nói. Thôi thế là hết cả niềm vui “nghi gia, nghi thất”, đến cả nỗi khổ đau hóa đá để chờ chồng trong tình yêu. cũng không còn nữa. Bao nhiêu công sức tình cảm chắt chiu của nàng để vun đắp, giữ gìn cái gia đình bé nhỏ đã trở nên vô nghĩa. Đang ở thế hoàn hảo điểm đỉnh, nàng bỗng rơi xuống vực thẳm không cùng. Nàng đã trở thành kẻ bạc mệnh “duyên phận hẩm hiu, chồng còn rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ”. Nàng hoàn toàn trắng tay, bị dồn đến bước đường cùng, đành tìm cái chết nơi dòng sông quê hương để giấu tỏ lòng mình. Nàng đã tự trầm mình, song cũng có nghĩa là nàng đã bị bức tử bởi chính thần tượng mà nàng đã dựa cậy tôn thờ. Cái chết của Vũ Nương là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, hủ bại. Nàng đã gặp phải một người chồng tuy là con nhà hào phú, song ít học, lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng. Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh dồn nàng đến bước đường cùng. Giá như Trương Sinh bình tĩnh tìm hiểu một chút thôi, thì tấn bi kịch chết người kia sẽ không thể xảy ra. Nhưng đó chỉ là chuyện giá như, còn ở đây nhà văn Nguyễn Dữ đã đặt dấu chấm than cho mọi sự đã rồi.
Cái chết đã trả nàng về với cõi vĩnh hằng và để lại sự tiếc thương vô hạn cho đời sau. Nàng cũng là một người con gái thường dân hiếm hoi được tôn thờ như một phúc thần thành hoàng làng. Nàng cũng là một phụ nữ đời thường được chính vị vua tài giỏi vào bậc nhất của nước Việt Lê Thánh Tông chiêu tuyết bằng những vần thơ đầy xúc động từ thế kỉ XV (trước cả tác giả Nguyễn Dữ gần một thế kỉ). Bài thơ ấy như sau:
Nghi ngút đầu đẹn tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chỉ cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
(SGK Văn học 9, tập một, bản in 1996)
(Bình giảng... sđd)
LUYỆN TẬP
1. Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chỉ cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Hãy phân tích truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và cho biết ý kiến của em về bài thơ Lại bài viếng Vũ Thị của Lê Thánh Tông.
2. Em hãy giải thích tên tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tại sao nhân vật Vũ Thị Thiết đã có chồng con mà tác giả vẫn gọi là “người con gái”?
3. Tác giả đã có cách kể chuyện sáng tạo như thế nào để khiến cho độc giả xúc động?
4. Hãy tìm những chi tiết cụ thể giới thiệu nhân vật Trương Sinh để cho thấy sự tan vỡ trong quan hệ vợ chồng là tất yếu.
5. Về mặt hiện thực, câu chuyện Vợ chàng Trương có thể kết thúc ở cái chết oan khuất của Vũ Thị Thiết. Thế nhưng Nguyễn Dữ đã nói vào phía sau một đoạn rất hư ảo.
Theo em, đoạn truyện sau tạo nên sức hấp dẫn cho thiên truyện chỗ nào? Ý nghĩa của đoạn kết thúc này.
6. Hãy phân tích giá trị hiện thực của truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
7. Phân tích giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
8. Hãy viết đoạn văn kể tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
9. Có người cho rằng chính chiến tranh phong kiến đã sâu xa gây nên cái chết oan nghiệt của Vũ Thị. Theo em, ý kiến đó có hoàn toàn đúng không? Nguyên nhân chính của cái chết nàng Vũ Thị là do đâu?
10. Phân tích hình tượng độc đáo của chi tiết chiếc bóng trên vách trong hệ thống các chi tiết tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
11. Dựa vào đoạn đầu truyện Chuyện người con gái Nam Xương (từ đầu cho đến “Bây giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, những việc trót đã qua rồi”). Hãy đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm ân hận.
12. Bình luận về cái chết của nhân vật Vũ Nương trong truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Từ đó hãy phát biểu ý kiến của em về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
13. Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
14. Kể lại “Chuyện người con gái Nam Xương”, tác giả Nguyễn Dữ muốn để người đọc suy nghĩ những duyên cớ sâu xa khiến một con người dung hạnh như Vũ Nương bị dẫn tới chỗ không thể sống được nữa.
Hãy làm rõ những duyên cớ sâu xa ấy qua việc phân tích tác phẩm nói trên.
15. Trong những tác phẩm văn học, có những chi tiết rất quan trọng, không có chi tiết đó cốt truyện không phát triển được. Em hãy lựa chọn một chi tiết như thế trong truyện ngắn “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 câu về ý nghĩa của chi tiết đó.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9