ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN - Phan Châu Trinh

Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ rất đặc sắc và độc đáo. Ngôn ngữ hàm súc, kết hợp tả thực với tưởng tượng, sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, khoa trương, tác giả đã sáng tạo nên những vần thơ đẹp bằng một tư thế hiên ngang. Bài thơ làm người đọc xúc động về một khí phách hiên ngang, một tấm lòng thủy chung với nước, với dân, với sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại Phan Châu Trinh.

I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG

Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ rất đặc sắc và độc đáo. Ngôn ngữ hàm súc, kết hợp tả thực với tưởng tượng, sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, khoa trương, tác giả đã sáng tạo nên những vần thơ đẹp bằng một tư thế hiên ngang. Bài thơ làm người đọc xúc động về một khí phách hiên ngang, một tấm lòng thủy chung với nước, với dân, với sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại Phan Châu Trinh. Sự nghiệp cách mạng cứu nước của dân quả là một sự nghiệp lớn lao như việc “vá trời” Tác giả đã từ việc đập đá khổ sai ở Côn Lôn mà liên tưởng tới việc Nữ Oa đội đá vá trời là liên tưởng rất tự nhiên, hợp lí như hệ thống liên tưởng của toàn bài thơ. Sự so sánh liên tưởng ấy làm nổi bật ý thức của Phan Châu Trinh về sự nghiệp cách mạng cứu nước, đó là một sự nghiệp to lớn như vá trời.

Tác giả đã dựng lên sừng sững tượng đài người chiến sĩ cách mạng giữ đất trời Côn Lôn, trong tư thế hiên ngang bất khuất, có tầm vóc của một anh hùng đượm màu sắc thần thoại. Tấm thân là thân tù, công việc đập đá là việc khổ sai cưỡng bức, nhưng đó chỉ là bề ngoài thôi. Còn bên trong tâm hồn Phan Châu Trinh vẫn ngùn ngụt một ngọn lửa đấu tranh, vẫn vời vợi hùng tâm tráng khí.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ bát cú Đường luật rất độc đáo, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ của bài thơ rất hàm súc, kết hợp tả thực với tượng trưng. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ tạo nên sức truyền cảm nghệ thuật rất lớn. Đặc biệt có những vần thơ đẹp bày tỏ một tư thế ung dung, một khí phách hiên ngang, một tấm lòng son sắt thủy chung với nước, với dân, với sự nghiệp cách mạng.

II. RÈN KĨ NĂNG ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (trả lời câu hỏi SGK)

Câu 1. Công việc đập đá của người tù ở Côn Lôn là công việc diễn ra với:

Không gian: Đứng giữa đất Côn Lôn là đứng giữa biển cả, non cao.

Điều kiện làm việc: Đập đá vốn là công việc nặng nhọc. Đập đá ở Côn Đảo lại càng cực nhọc hơn vì nhà tù và thiên nhiên đều khắc nghiệt.

Tính chất công việc: Kẻ thù chọn công việc đập đá làm việc khổ sai cưỡng bức để tàn phá dữ dội thân thể và tiêu hao sức lực của người tù, lòng khuất phục ý chí của họ.

Người tù: Câu mở đầu của bài thơ gợi lên thế đứng của con người giữa không gian đất trời: “Đứng giữa đất Côn Lôn”.

Trước hết, không phải thế đứng của một kẻ tầm thường, mà là thế đứng của kẻ “làm trai của người đang làm phận sự của kẻ anh hùng. Trong quan niệm nhân sinh truyền thống, “làm trai” đồng nghĩa với “làm anh hùng”, chí làm “chí anh hùng”.

Nói “làm trai” là tỏ lòng kiêu hãnh của người có chí lớn, có khát vọng hành động mãnh liệt để tự khẳng định mình.

Sau nữa, con người như thế đứng trong một tư thế rất đàng hoàng giữa nơi lưu đày quanh năm sóng vỗ: “Đứng giữa đất Côn Lôn”. Đó đúng là thế đứng của đấng nam nhi anh hùng.

Câu thơ mở đầu toát lên một vẻ đẹp cao cả, hùng tráng.

Câu 2. Bốn câu thơ đầu có hai lớp ý nghĩa. Phân tích giá trị nghệ thuật của những câu thơ đó. Nhận xét về khẩu khí của tác giả.

- Bốn câu thơ đầu:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

- Có hai lớp nghĩa, đó là:

+ Phan Châu Trinh đã miêu tả công việc lao động khổ sai thành một chiến công chinh phục của một dũng sĩ với sức mạnh phi thường.

+ Đối tượng chinh phục của dũng sĩ “đập đá” là “đá”.

- Giá trị nghệ thuật của bốn câu thơ đầu:

+ Tác giả chọn bút pháp khoa trương và giọng điệu pha chút tự hào. Nhà nho - người tù Phan Châu Trinh vốn chân yếu tay mềm, “bạch diện thư sinh” ấy thoắt biến thành một dũng sĩ với vóc dáng khổng lồ và sức mạnh phi thường.

+ Chàng dùng sĩ đập đá ấy có khí thế bừng bừng, hiên ngang, “lừng lẫy” như bước vào một cuộc giao tranh quyết liệt, sống mãi với kẻ thù không đội trời chung.

+ Chiếc búa đập đá trở thành một vũ khí ghê gớm của chàng dũng sĩ. Hành động của chàng thật quả quyết, mạnh mẽ “xách búa”, “ra tay”, “đập bể” hệt như người anh hùng đang bất bình trước sự bất công, sẵn sàng “ra tay” hành động vì công lí và lẽ phải.

+ Đá khổng lồ thì sừng sững như “núi non”, đá hạng vừa thì cũng “năm bảy đống”, đá nhỏ thì cùng thành đội ngũ “mấy trăm hòn” trùng điệp bao vây dũng sĩ. Đá ở đây chính là chế độ thống trị của quân cướp nước, của lao tù. Chàng “tả xung hữu đột”, đánh trực diện, “đánh” sang giải “đập” sang trái với sức mạnh thần kì, kẻ thù bị đánh sụp đổ, tan tành.

- Khẩu khí của tác giả:

+ Cách miêu tả những động tác, là những hành động có chọn lọc, cùng với những động từ và tính từ rất mạnh và rất gợi cảm được sử dụng liên tiếp (“làm cho lở”, “đánh trả”, “đập bể”); nhịp thơ mạnh, dồn dập, gấp gáp... tạo nên không khí sôi động, dữ dội của trận giao tranh ác liệt. Mỗi nhịp thơ như ứng với một nhịp búa vung lên, giáng xuống.

+ Dũng sĩ đập đá mà như muốn san bằng bất công, tàn ác vì đại nghĩa ở đời.

Câu 3. Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp những cảm xúc và suy nghĩ của tác giả. Ý nghĩa của 4 câu thơ này và cách thức biểu hiện cảm xúc của tác giả.

- Khí phách vẫn là khí phách hiên ngang, khẩu khí vẫn là khẩu khí của người anh hùng, nhưng giọng thơ đã chuyển sang tự bộc bạch:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Cái giây phút suy tư, trầm lắng hướng nội này thật đáng quý. Hai câu luận hay ở độ lắng sâu, như một lời lòng tự dặn lòng, khắc họa một vẻ đẹp khác của người chiến sĩ cách mạng. Người chiến sĩ cách mạng không chỉ đẹp ở tư thế lẫm liệt, oai phong có màu sắc thần thoại, sử thi. Mà còn đẹp một vẻ đẹp rất con người, vẻ đẹp nội tâm rất thực.

- Tác dụng của việc chuyển giọng điệu:

+ Tạo ra sự sâu lắng của cảm xúc, của tâm hồn.

+ Sau cái sôi động của trận giao tranh ác liệt. Sau cái chát chua của những nhát búa giáng xuống “đánh tan”, “đập tan”, “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn” người dũng sĩ dừng tay lại có những phút suy tư.

+ Trận đánh vừa qua mới là hiệp đấu. Cuộc chiến đấu còn dai dẳng “tháng ngày” triền miên.

+ Tù ngục Côn Lôn “là một trường học thiên nhiên” để thử thách “chí làm trai”. Anh hùng chỉ là chuyện một ngày, một trận đánh, sự nghiệp vĩ đại cứu dân đâu cần thứ anh hùng lửa rơm bùng lên chốc rồi lại tắt ngấm ngay.

+ Muốn ứng danh anh hùng, để hoàn thành sự nghiệp cứu nước vĩ đại kia, phải có tấm lòng sắt son, niềm tin sắt đá.

- Hai câu kết thể hiện ý nghĩa sâu sắc của Phan Châu Trinh về sự nghiệp chung, về cá nhân mình, về cảnh ngộ hiện tại bản thân:

+ Tác giả đem nỗi “gian nan” của mình là bị án chém, án chung thân biệt xứ “đày ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về” để so sánh với sự nghiệp “vá trời” cứu dân, cứu nước vĩ đại ấy thì việc cá nhân mình cũng chỉ là “việc con con”.

+ Cái việc “lỡ bước” của mình mà so với hùng tâm, tráng sĩ của “những kẻ vá trời” trong đó có chính mình, thì cũng như là “việc con con”.

So sánh để hiểu rõ vị trí cá nhân mình trong sự nghiệp chung, Phan Châu Trinh trở nên lớn lao, đẹp đẽ hơn trong đức khiêm nhường của người chiến sĩ cách mạng mà vẫn giữ được vẻ đẹp lẫm liệt hiên ngang của “những kẻ vá trời”.

III. BÀI VĂN THAM KHẢO

Một số tác phẩm văn thơ cách mạng đã khắc họa được hình tượng người chí sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX. Đó là những con người dù trong hoàn cảnh tù đày gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có tư thế hiên ngang, khí phách hào hùng và ý chí kiên định. Dựa vào các tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn... hãy làm sáng tỏ điều đó.

Bài làm

Trong dòng văn thơ cách mạng của các tác giả viết vào đầu thế kỉ đã có nhiều tác phẩm khắc hoa hình tượng người chiến sĩ yêu nước song hoàn cảnh tù đày gian khổ nhưng vẫn hiên ngang bất khuất, kiên định ý chí cách mạng. Các tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, nằm trong số các tác phẩm đó.

Thông qua các tác phẩm ấy, các tác giả đã thể hiện rõ hình ảnh dù họ bị tù đày nhưng tư thế vẫn hiên ngang, lẫm liệt, khí phách thật hào hùng. Đó là tư thế ung dung, tự tại đầy vẻ hào kiệt và phong lưu. Sự kết hợp hài hòa hai tính cách đó tỏ rõ một thái độ thách thức hiểm nguy. Với giọng thơ có vẻ đùa vui:

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

thì sự thách thức càng mạnh mẽ hơn. Họ thách với hoàn cảnh tù đày, với cái chết kề bên. Vào tù nhưng lại biến mình thành một vị thần. Họ thật tài ba khi biến cái thế bị động của người tù sang thế chủ động của một con người làm chủ bản thân và hoàn cảnh.

Họ đã biến cái lao dịch khổ sai của nhà tù thành một công cuộc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh. Phan Châu Trinh đã tạc lên sừng sững một nhân vật thần thoại lẫm liệt, lồng lộng giữa biển cả bao la:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn.

Và họ, những con người mạnh mẽ được ví với nhân vật thần thoại Nữ Oa: còn lí tưởng của họ vĩ đại như việc vá trời. Khí thế lừng lẫy như xung trận, hành động quả quyết phi thường “Xách búa đánh tan” “ra tay đập bể”, với sức mạnh thần kì làm “lở núi non”.

Vì vậy họ coi nhà tù như là nơi rèn luyện và để thể hiện ý chí bất khuất của người chiến sĩ yêu nước. Và những người chiến sĩ yêu nước này cũng thể hiện được ý chí hiên ngang bất khuất ngay trong cuộc đối mặt với kẻ thù. Khi thể hiện khí phách của Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc đã diễn tả tư thế gang thép của Cụ khi đối mặt với tên toàn quyền Đông Dương. Người chiến sĩ yêu nước ấy không hề nói một câu nào, không thèm nghe mà chỉ im lặng dửng dưng trước những lời dụ dỗ cũng như đe dọa của kẻ thù. Với họ, dù gươm kề cổ, súng kề tai, cũng không bao giờ phản bội lí tưởng cách mạng. Chính thái độ đó khiến kẻ thù từ chỗ tự đắc cho rằng chúng có thể bẻ gãy được ý chí của người chiến sĩ cách mạng đến chỗ phải hoang mang, rồi phải kính sợ. Mặc dù Cụ đang bị chúng “đeo gông lên vai, đày đọa trong nhà giam, ngày đêm bị bóng dáng của máy chém như một bóng ma kề bên cổ” (“Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”). Qua đó, ta thấy hình tượng người chí sĩ cách mạng thật hào hùng. Họ không hề sợ hoàn cảnh tù đày mà ngược lại họ còn coi thường hiểm nguy, coi việc vào tù như một sự nghỉ chân, lỡ bước với một tư thế hiên ngang, bất khuất.

Ý chí thực hiện lí tưởng cách mạng của những chí sĩ yêu nước cũng rất lớn lao và khó có thể suy chuyển nổi. Phan Châu Trinh viết bài Đập đá ở Côn Lôn trong hoàn cảnh của người tù bị đày đọa, những lời thơ lại cứng rắn, không chịu khuất phục, cùng với giọng điệu đanh thép, lời thơ vui sống, luôn tin tưởng vào tương lai, đặc biệt là sự nghiệp cách mạng cao cả. Điều đó thể hiện ý thức, tình cảm tự giác, mạnh mẽ, quyết tâm dồn sức lực trí tuệ để đạt được mục đích. Mượn hình ảnh đập đá phá tan những trái núi, ông thể hiện chí dời non lấp biển, tinh thần gang thép mà ngục tù khổ sai không bẻ gãy được họ. Trái lại họ coi nhà tù là nơi tôi luyện thêm ý chí bền bỉ, dẻo dai, vững chắc:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son

để họ thực hiện lí tưởng.

Như vậy, qua đó ta thấy hình tượng người chí sĩ rất hào hùng, kiên định một lí tưởng giải phóng đất nước, xây dựng đất nước. Bởi thế văn thơ của họ như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho dân tộc đồng thời cũng làm cho kẻ thù khiếp sợ. Chính vì thế trước Cách mạng tháng Tám, các tác phẩm thơ văn đó chỉ thường lưu hành không công khai, nhưng không vì thế mà nó không đến với quần chúng. Nó vẫn như tiếng kèn xung trận, thúc đẩy quần chúng lên đường cứu nước.

Các bài học liên quan
Thuyết minh về một giống vật nuôi.
Thuyết minh về đôi dép lốp (cao su) trong kháng chiến.
Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam.
LUYỆN NÓI: THUYẾT MINH VỀ MỘT THỨ ĐỒ DÙNG
DẤU NGOẶC KÉP
DẤU NGOẶC ĐƠN VÀ DẤU HAI CHẤM

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 8 mới cập nhật