Soạn bài Lục Vân Tiên gặp nạn trang 118 SGK Văn 9
4. Đoạn thơ hay về ngôn ngữ miêu tả và giàu cảm xúc đó là đoạn cuối lời ông Ngư nói về cuộc sống của mình:
1. Chủ đề ở đoạn thơ này là sự đối nghịch giữa thiện và ác
- Cái ác: Do ganh ghét, đố kỵ tài năng của Lục Vân Tiên nên khi Vân Tiên đang bơ vơ nơi đất khách quê người lại tàn tật, Trịnh Hâm đã trở thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm hãm hại Lục Vân Tiên ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thé đe dọa đến bước đường công danh của hắn.
- Cái thiện: Vân Tiên được ông Ngư cứu. Đó là việc làm nhân đức cùng cuộc sống trong sạch, nhân cách cao cả của ông Ngư.
2. Tâm địa độc ác của Trịnh Hâm
- Hành động độc ác, bất nhân, bất nghĩa: độc ác, bất nhân vì hắn dang tâm hãm hại một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có gì để chông đỡ. Bất nghĩa vì Vân Tiên vốn là bạn của hắn, từng “trà rượu” và làm thơ với nhau, lại đã có lời nhờ cậy: "tình trước ngãi sau - Có thương xin khá giúp nhau phen này”, và hắn cũng từng hứa hẹn: “Người lành nỡ bỏ người đau sao đành”.
- Hành động có toan tính, có âm mưu, kế hoạch sắp đặt khá kĩ lưỡng, chặt chẽ. Thời gian gây tội ác: giữa đêm khuya, khi mọi người đã yên ngủ trên thuyền. Không gian: giữa khoảng trời nước mênh mông (giữa vời “mịt mờ sương bay). Người bị xô ngã xuống “vời” thì bất ngờ không kêu lên một tiếng. Đến lúc biết không ai còn có thể cứu được Vân hắn mới “giả tiếng kêu trời”, la lối um sùm lên, rồi "lấy lời phôi pha” kể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm, nhờ gian ngoa xảo quyệt đã phủi sạch tay, không mảy may cắn rứt lương tâm.
Chỉ có tám dòng thơ để kể về một tội ác tày trời và lột tả tâm một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Nguyễn Đình Chiểu đã thành công ở c sắp xếp các tình tiết hợp lý, diễn biến hoạt động nhanh gọn, lời thơ vẫ giữ được vẻ mộc mạc, giản dị vốn có của tác phấm.
3. Cái thiện được thể hiện qua hình ảnh ông Ngư và gia đình ông
- Cảnh ông Ngư vớt Vân Tiên lên và cả gia đình chạy chữa cho chàng một cách ân cần, chu đáo (ông, bà, con). Cả nhà dường như nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa đế cứu sống Vân Tiên.
- Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp của ông Ngư: Sau khi sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông Ngư sẵn lò cưu mang chàng, dù chỉ là chia sẻ một cuộc sông đói nghèo “hẩm hút tương rau, nhưng chắc chắn sẽ đầm ấm tình người “Hôm mai hẩm hút với già cho vui”. Ông cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng Vân Tiên chảng thể báo đáp “Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn".
- Cuộc sống lao động của ông Ngư: Đây là một cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống tự do phóng khoáng giữa trời cao rộng, hòa nhập bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng, và do thế cũng đầy ắp niềm vui, bởi con người lao động tự do, tự làm chủ mình, có thể ứng phó với mọi tình thế. Cuộc sống hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỷ, mưu danh, tư lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa...
- Gửi gắm khát vọng vào niềm tin về cái thiện, vào con người động bình thường. Từng trải đời, Nguyễn Đình Chiểu hiểu rất rõ cái xấu, cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang (như Thái sư đương trào, Võ Công, Trịnh Hâm, Kiệm...) nhưng vẫn còn những cái tốt đẹp, đáng kính trọng, đáng khát, tồn tại bền vững nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài (những ông Ngư, ông Tiều, chú tiểu đồng, bà dệt vải trong rừng,...).
4. Đoạn thơ hay về ngôn ngữ miêu tả và giàu cảm xúc đó là đoạn cuối lời ông Ngư nói về cuộc sống của mình:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”.
Đoạn thơ có ý tứ phóng khoáng mà sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm. Một khoảng thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt được mở ra với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, đất, gió, trăng,... Con người hòa nhập trong cái thế giới thiên nhiên ấy, không chút cách biệt hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió... và niềm vui sống cũng dường như đầy ắp cái “cõi thế'’ của con người ấy (tác giả dùng rất nhiều từ chỉ trạng thái tâm hồn thanh thản, vui sống ấy: vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say...). Có cảm giác như chính Nguyễn Đình Chiểu đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9