Thuyết minh về một nét đẹp văn hóa truyền thống của Việt Nam ( tết trung thu )
Tết Trung thu là một cái Tết đặc biệt dành cho thiếu nhi. Đây cũng là dịp để mọi người trong gia đình sum họp, trò chuyện,...
- Bài học cùng chủ đề:
- Thuyết minh về một nhà văn địa phương
- Thuyết minh về một loại hoa, loài cây mà em yêu thích
- Cách làm bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
ĐÈ 30: Thuyết minh về một nét đẹp văn hoá truyền thống cùa Việt Nam. (Tết Trung thu)
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
- Tết Trung thu là một cái Tết đặc biệt dành cho thiếu nhi.
- Đây cũng là dịp để mọi người trong gia đình sum họp, trò chuyện,...
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
- Người Việt ta ăn Tết Trung thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục của người Tàu.
- Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung thu, trăng to tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thường thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ cho phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trước giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.
- Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngàv rầm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.
- Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khấp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.
2. Đặc điểm
- Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.
- Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiếu được sự săn sóc quí mến của cha mẹ đối với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khang khít thêm.
- Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biêu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác.
- Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp tết Nguyên đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp tết Trung thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành.
- Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống quân trong dịp Tết Trung thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình." Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân đế hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát.
3. ý nghĩa
- Tết Trung thu mới đầu là tốt của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trâng rằm vào giữa tiết Thu.
- Dần dần tết Trung thu trở thành tết trẻ em hay tết nhi đồng, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó.
- Trẻ em được người lớn chú ý săn sóc như các hội đoàn người Việt hải ngoại đã và đang làm. Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị làm cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo tha cửa mà không sợ bị quở mang là “ăn kẹo sâu răng".
III. KẾT BÀI
- Tết Trung thu là một trong những cái Tết rất có ý nghĩa không chỉ đối với người lớn mà còn đặc biệt đối với thiếu nhi.
- Chúng ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy nhữg ý nghĩa cao đẹp: của nó.
BÀI VăN THAM KHẢO
Trờ trong sáng trăng tròn lơ lửng gió
Đồng mờ sương khóm chuối lặng mơ màng Những ao biếc ngâm sao đầy nuớc tỏ
Bụi tre ngà lơi lả uốn lưng cong
Trung đường phố trống chiêng chung
Trẻ con theo sư tử rước vang ầm
Ngoài đình xóm tiếng cười chen tiếng nói
Gái trai làng đi họp hát trống quân
Trong khi ấy phất phơ khăn với áo
Các bà đồng ra điện lễ cười vui
Nghiêm lặng nhất cỏ vài ba ông lão
Thả con thuyền uống rượu với trăng trôi
Đoàn Văn Cừ
Đây đúng là một cảnh trung thu đặc sắc tại làng quê trong một không khí thanh bình. Ngày xưa để thưởng thức một mùa trung thu thật vui vẻ, các em cũng phải góp phần tự làm nhiều đồ chơi để thưởng tết, ngày nay còn cả tháng nữa mới tết Trung thu nhưng ngoài đường phố đã treo đầy rẫy các loại đèn Trung thu: Từ đèn con cá, con bướm, con thỏ, con chim, đến bầy cá hóa long, chiếc thuyền đốt đèn lên dây cót chạy trên nước, con thỏ đánh trống, máy bay, đến cả các nhân vật trong võ thuật như Triển Chiêu bằng giấy bóng kiếng đủ màu rực rờ và thật đẹp. và nay lại thêm các lồng đèn chạy bằng pin có nhạc đủ loại đủ hình cùa Trung Quốc: nào là Na Tra Thái tử đi trên quả cầu với hai bánh xe phong hòa và tay quay hai vòng càng khôn, nào là siêu nhân, nào sư tử hí cầu với đòn màu, nào đèn có hai cô tiên rất xinh...
Việc đầu tiên khi gần tới tết Trung thu là các em chuẩn bị làm đèn lồng Trung thu dưới sự hướng dẫn của người lớn. Các em được dạy làm đèn xếp bằng giấy gấp nếp nhỏ theo chiều ngang, sau đó lại gấp thành nếp bé theo chiều dọc rồi xoay vòng dán lại với nhau thành một hình ống, đáy cắt một hình tròn bàng bìa cứng dán vào, phía trên, cắt một vòng hình vành khăn dán vào mép ống trụ, rồi xâu một dây vào hai lỗ đục đối diện trên mép đòn để xách bằng cách treo vào đầu một que tre Thế là các em đã có một chiếc đèn xếp ở giữa đáy, phải đính một miếng kẽm mỏng để gắn nến đốt. Lớn hơn chút nữa cỡ tuổi lớp năm bây giờ, các em lại đưọc hướng dẫn vót tre làm khung đèn ông Sao, 10 thanh tre cật mỏng cở 30-40 cm cột từng đôi một thành hai khung sao năm cánh bàng lạt hay dây gai (cuộn dây bán sẵn), hai khung này lại được cột với nhau chặt lại ở năm đầu, vót thêm năm miếng cật tre nhỏ dài cỡ 3cm tròn như chiếc đũa, nhét vào giữa hai khung sao trên, tạ chân các cánh sao để căng rộng khoảng cách hai khung ở phần giữa ngôi sao tạo thành một hình khối ngũ giác. Trên một trong năm miếng cật tre nhỏ này lại có quấn một lò xo băng dây kẽm mỏng để gắn nến. Xung quanh một ngôi sao dán giấy bóng mờ hoặc giấy bóng kiếng để hở hai cạnh của cánh sao phía trên, đối diện với miếng cật tre nhỏ có gắn lò xo để cho nến vào đốt; buộc đầu cánh sao có hai cạnh để hở không dán giấy bằng một sợi dây gai và treo vào đầu một cành tre nhỏ (đã róc lá) hoặc một cây gậy nhỏ. Thế là các em đã có một chiếc đèn ông sao để đi rước do chính mình làm. Khi đã hơi lớn lớn các em tráng nhi còn được người lớn chỉ cho làm đèn kéo quân đế treo ở nhà. Làm được đèn này các em rất hãnh diện, chứng tỏ mình khéo tay, thông minh và đã nhớn nhao. Để làm đèn kéo quân, các em phải có hai khung: một khung 1 bên ngoài hình trụ tròn hoặc hình khối tứ giác và một khung thứ hai bên trong (nhỏ hơn cả về chiều rộng lẫn chiều cao) gồm hai vòng tròn kẽm mỏng nối kết với nhau cũng bằng dây kẽm thành một hình trụ tròn để lọt trong khung I và có thể xoay vòng dễ dàng trong khung I, khung ngoài lớn hơn làm bằng tre cật vót mỏng hay bằng kẽm cứng uốn kết lại với nhau có dán giấy bóng mờ (trên có vẽ cảnh trời, mây, sông, núi, đường quê V.V.), có tô màu, làm nền để chiếu lên trên đó bóng của các hình khung thứ II. Khung ngoài (I) được dán giấy kín mít chỉ hở mặt trên, dưới đáy và trên mặt khung 1 đều có một thanh ngang (bằng kẽm hoặc tre cật) chia đáy và mặt trên khung I thành hai phần đều nhau. Ở giữa thanh ngang với đáy có gắn một dây lò xo kẽm mỏng để gắn nến.
Ngày nay thay vì nến người ta cho vào trong phía đáy khung đèn kéo quân một bóng đèn điện hoặc đèn pin độ 3 watt vừa để chiếu sáng vừa làm nóng không khí trong đèn, tạo một luồng khí chuyển động đi lên làm quay khung thứ II ở trong khiến các hình gắn ở trên vòng dưới khung II chuyển động hắt bóng lên giấy dán (có vẽ phong cánh) của khung I (khung ngoài) làm nên một cảnh tượng linh hoạt: người, ngựa, trâu bò, quân lính, xe cộ, gánh hàng rong,.... di chuyên trên đường sá, qua các vùng sông núi, làng mạc...
Như đã nói ở trên, khung II làm bằng kẽm mỏng nên nhẹ, và khung II nhỏ hơn khung I nhiều để có thể xoay vòng dễ dàng trong khung thứ I. Hai vòng tròn của khung II cách nhau độ 5 tới 6 cm. Trên vòng thứ 2 cùa khung II có dán các hình (bằng giấy), người, ngựa, xe cộ, quân lính,... khi quay sẽ chiếu hình trên khung 1 bên ngoài. Mỗi vòng của đáy khung II đều có một thanh kẽm ngang chia đều mặt trên và đáy khung II, giúp khung II được thăng bằng và có thể xoay tròn theo sợi dây gẳn vào khung I. Khi luồng khí nóng bốc lên (sau khi đốt đèn một lúc, sức nóng cùa đèn làm nóng không khí ở đáy của khung I lồng đèn kéo quân và khối không khí này nở ra bốc bay lên làm xoay sợi dây và khung 11 lồng đèn). Thế là các em đà có được một chiếc đèn kéo quân để treo trong nhà mùa Trung thu: vừa là đề tài của những lời khen ngợi của người lớn vừa là niềm hãnh diện và thích thú của các em.
Ở ngoài cửa hàng, cũng có bán một số đèn Trung thu ngoài đèn xếp (nhiều loại, nhiều màu có vẽ hình lên rất đẹp - đèn xếp hình quả bầu, hình tròn, hình trụ...), đèn ngôi sao, đèn con thỏ đánh trống có hai bánh xe nối vào hai cánh tay con thỏ ( làm bằng thiếc có sơn màu), có cầm que trước mặt có trống, cỏ gắn đèn, cả hệ thống như một chiếc xe có cần đẩy đằng sau đe các em cầm - khi đẩy đi, tay con
thỏ đưa lên đưa xuống đánh vào trống kêu beng beng, và đòn chiểu sáng xuống mặt đường (đây là chiếc đèn có khoa học kỹ thuật nhất thời đó), lại còn cỏ cả chiếc đèn là một bầy cá hóa long, con cá mẹ nằm giữa có chỗ cắm nến, còn xung quanh có một vòng tròn treo đây cá con, to và đẹp - rồi đèn con bướm, con rồng, đèn kéo quân, v.v. Tuy nhiên, những đồ chơi này chỉ dành cho con nhà giàu, dư dả; ở nhà quê con nhà nghèo và các nhà thường thường bậc trung đều tụ làm lấy đồ chơi và khi làm các đồ chơi như vậy các em cũng coi như là đang chơi tết, rất thích thú. Ngoài đèn Trung thu còn các đồ chơi khác, tuy không nhiêu như bay giờ: như chiếc tàu thuỷ có cam đèn chạy bằng dây cót thà trong chậu nước, những chiếc xe hơi bằng thuỷ tinh đựng đầy kẹo the xanh, đỏ, những con vật tết bằng lá dừa thật khéo thành những con châu chấu, con chim, v.v. đậu trên cành lá: những con giống hình thằng người đánh đu, hình các nhân vật trong chuyện cỏ tích như Tấm Cám, Trần Minh khô chuối. Lọ Lem, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới.v.v. dù loại được ngưòi bán hàng khéo tay nặn và thổi bằng bột dẻo có pha nhiều màu nặn xong lại cám trên cái que hay cành cây. Ngoài ra, lại có các ông Phỗng (chữ nói trại của ông Phật) để trò em bầy cỗ, nhắc nhớ các em lòng tin nơi Trời Phật, ông Tiến sĩ bằng nan tre, phết màu, cớ có quạt biển long (ông Tiến sĩ giấy) cũng để bầy giữa mâm cỗ Trung thu để khuyến khích tinh thần hiếu học của các em, các em gái thì có các con giống làm bằng bột, cs tô màu để bầy cỗ, đủ hình các loại chim, thú (chim thú nuôi trong nhà và trong thiên nhiên như gà, vịt, chó, mèo, tổ chim sẽ có những quả trứng nhỏ, chuột, trâu, hò, sư tử, hươu, nai...), các đồ dùng trong nhà (bát, đĩa. Nồi niêu, xoong, cháo, tủ, gương, bàn, ghế...), các đồ vật sử dụng trong cuộc sống ở xã hội (xe hơi, quang gánh, xe cút kít...) để tăng hiểu biết, dễ nhắc nhớ tới nữ công nữ hạnh.
Sau khi làm xong đèn và mua các đồ chơi nói trên, các em chuẩn bị để tham dự các trò vui và các lễ lạc như được kể ở bài thư trên của Đoàn Văn Cừ.
- Cả hơn nửa tháng trước đêm Trung thu, trẻ em đã tụ họp để rước đèn trong xóm hoặc chơi múa sư tử đánh trống ầm ĩ, hoặc có khi chỉ chơi đốt nến rồi hát lì vui vẻ.
- Cuộc rước sư tử đêm Rằm do thôn xóm tổ chức trong đó có các em được giao nhiệm vụ đội đầu sư tử múa. một hoặc hai em đi sau nam đuôi sư tử, nhảy nhót. Một số em đánh trống ếch hoặc sau này có trống tây đeo đầy ở vai và các em khác thì cầm theo đèn của mình có đốt nến đi theo, có khi hát vang theo tiếng trống. Đám rước ồn ào, náo nhiệt, vui vẻ diễu hành qua đường phố trong làng xóm kết thúc bằng một màn đồng ca nhộn nhịp và một cuộc phát kẹo bánh mà các em rất hài lòng.
- Sau đó các em tản mát về nhà hoặc ghé xem canh các nam thanh nữ tú hát trống quân.
- Một số em lại ghé các đền, miếu xem các bà lên đồng để được phát lộc những đồng xu, đồng hào giấy kết thành những con bướm, con chim và được phát cả kẹo bánh.
Hoặc các em theo bà, theo mẹ lên chùa lễ Phật để được phát lộc là oản, là bánh, là xôi, chè, v.v.
- Rồi các em vè nhà dự tiệc bày cỗ quan trọng để trông trăng, cùng nhau hát hò, chơi đùa kể chuyện tới khuya mới phá cỗ. Dù nghèo, dù giàu các em cũng có bầy một mâm cỗ Trung thu (dù so sài, dù ít ỏi) để cùng chơi vui (nhà nghèo thì mâm cỗ có khi chỉ là vài chiếc bánh Trung thu bé xíu, vài trái cây hái trong vườn hay xin của nhà hàng xóm, vài con giống tự làm, vài ông Phỗng tự nặn ít cây nến V.V.). Nếu nhà rộng rãi có mái hiên, cỏ sân gạch, các cm chuẩn bị mâm cỗ này với các đồ chơi từ tối 14, còn thường thì chiều 15 cơm nước xong xuôi, các em bày cỗ (có sự giúp đỡ của bà, mẹ, anh, chị) rồi đi rước đèn, trở về mới trông trăng cùng đám chúng bạn. anh chị em và gia đình hát hò vui vẻ. Rồi khi đã thật khuya, trăng đã lên cao và đã buôn ngủ mới phá cỗ.
- Mâm cỗ Trung thu truyền thống, luôn luôn phải có ông Tiến sĩ giấy (giữa mâm). với ông Phỗng để hàng trên cùng, trước ông Tiến sĩ, rồi đến các con giống, đồ chơi, hoa quả. nhà giàu thì có thêm xôi chè, bánh trái, các đĩa thức ăn ngon lành, có bánh Trung thu to tát thơm ngon (bánh nướng nguyên ổ to chụm hình con rồng rất đẹp hoặc nguyên hộp một cân hơn bánh, bánh dẻo cùng vậy, toàn loại thượng hạng cả: cỏ vi cả, yến, lạp xưởng, gà quay, v.v. thơm phức, có hạt sen. đậu xanh, trứng muối I hoặc 2 lòng trứng đỏ au). Nhà nghèo cùng cỏ bánh nhưng là mấy chiêc bánh nhỏ xíu để trẻ con bày cỗ. Đèn nến đốt sáng cắm quanh mâm cỗ hoặc treo lên dây vắt ngang mâm cỗ. mọi người ngồi vây quanh hoặc hát hò hoặc kể chuyện về thỏ ngọc, chị Hằng, chú Cuội hoặc Tấm Cám. v.v. hoặc do nhau, hoặc ngắm trăng, ngắm sao. rồi chơi đếm sao (một ông sao sáng, hai ông sáng sao ) hoặc chơi nói nhanh (nồi đồng nấu ốc, nồi đất nâu ếch), xem ai nói được lâu. nhanh mà không nhịu, hoặc chơi “tập tầm vông”. hoặc chơi đố người, đố vật. (thí dụ: “Kiến tố vừa đố vừa giảng” (tra lời: Tổ kiến) - “Nhà có bà hay la liếm?" (trả lời: cái chổi)
- "ở nhà có bà hay ăn cơm trước" (trả lời: đôi đũa cả), chơi “nu na nu nống", chơi “xỉa cá mè đè cá chép”, rồng rắn, ...
Thật là một buôi tối rất vui vẻ, náo nhiệt! Khi chơi đã chán và cảm thấy đói bụng. lúc ấy trăng cùng đã lên cao, mọi người đều hô "Phá cỗ", ai nấy đều vỗ tay đồng tình và thức ăn được chia ra cho mọi người ăn uống ngon lành, mâm cỗ với các em bé háu đói đã hết nhanh, người lớn cũng tham gia để chung vui với các em Ai ấy đều hả hê vì có một đêm trung thu trọn vẹn.
Cảnh trung thu trăng sáng trời trong thường chỉ có ở mien Bấc, một nửa miền Trung trở vào Nam đêm trung thu thường bị "phá quậy” bởi những trận mưa khiến đôi khi "ông Trăng” cùng chị Hằng và Thỏ ngọc đều đi trốn - Và mọi người đành bày cỗ trong nhà với đón thay trăng. Có khi miền Trung và cao nguyên còn bị bão lũ mất cả Trung thu.
- Có nơi như ở Hát Giang, quê của Hai Bà Trưng, các em còn chơi phụ đồng cuội vào đêm Trung thu.
- Tết Trung thu còn một trò giải trí thú vị đối với các em nữa đó là đi rong phố xem các hình ảnh quảng cáo các nhà hàng lớn bán bánh trung thu thiết kế rất khéo, rất đẹp, màu sắc rực rỡ rất vui mắt: nào cảnh Đường Minh Hoàng du nguyệt điện với bầy tiên nữ đẹp xinh múa vũ khúc nghê thường, nào cảnh chú cuội ngồi gốc cây đa, nào cảnh bát tiên quá hải, nào cảnh thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh được tặng bánh trung thu, nào cảnh các em bé rước đèn chơi trăng, nào cảnh múa sư tử... Nội phố Huế gần nhà tôi cùng có bao nhiêu là cửa hàng có quảng cáo đẹp. Tôi nhớ ngày bé cứ gần Tết Trung thu là mẹ tôi lại thuê chú xích lô quen chở chúng tôi trên xe, dạo phố phường Hà Nội để ngắm cảnh náo nhiệt của đèn, bánh trung thu cùng các quảng cáo mà chúng tôi xem say mê không biết chán. Bố mẹ đứng cửa vẫy nhìn chúng tôi sung sướng đi chơi mà bố mẹ cũng được vui lây. Lớn lên rồi tôi chẳng bao giờ còn được vui sướng hồn nhiên như ngày xưa ấy!
Các bài hát trung thu ngày xưa mà trẻ em thường hát vẫn còn văng vẳng bên tai tôi
Bài I
- Trăng trung thu là trăng Việt Nam tươi sáng
- Đêm trung thu đèn sáo cờ bay phấp phới
- Tiếng trống khắp nơi - Câu ca vang trời
- Ấy tết thiếu nhi là muôn điệu múa vui tươi
- Dinh, dinh, dinh, cắc tùng - Dinh, dinh, dinh,
cắc tùng. Tala, dinh dinh, tala dinh dinh
Bài II
Ra xem kìa một ông Trăng to
To hơn cả 10 cái bánh bò
Đoàn ca cùng vui tươi dưới trăng
Cùng ca múa dưới ánh trăng ngà.
Bài III
Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội
già ôm một mối mơ-ôm một mối mơ
Điệp khúc:
Cuội ơi ta nói Cuội nghe
Ở trên cung mãi làm chi
Có cô thích cười muốn leo lên trăng
Hãy hỏi ông Trời cho mượn cái thang - cho mượn cái thang
Lặng nghe trăng gió hỏi nhau
Chị kia quê quán ở đâu
Gió không có nhà gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng chân trời nước nam, chân trời nước nam.
Mười lăm tháng tám Trời cho
Một ông Trăng bánh thật to
Sáng rơi xuống đồi, sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây sáng ngồi xuống đây!
Bài IV
Đồng một lòng chúng ta cố chèo Thật nhịp nhàng tay bơi tay lái
Rồi ra bên sông Ngân Hà ngắm sao đỡ buồn, dìu trăng đỡ buồn Thuyền dìu trăng lên sông Ngân (2 lẩn)
Còn cứ đi, cứ lên đây,
Mái khoan chưa đầy, quăng lên chớ chầy.
Nào các em bé, chúng ta hãy cùng hát những bài hát trung thu này nhé!
(Theo Toan Ảnh, Nếp cũ, 2010)
dayhoctot.com
- Bài 1 sgk ngữ văn 8
- Bài 2 sgk ngữ văn 8
- Bài 3 sgk ngữ văn 8
- Bài 4 sgk ngữ văn 8
- Bài 5 sgk ngữ văn 8
- Bài 6 sgk ngữ văn 8
- Bài 7 sgk ngữ văn 8
- Bài 8 sgk ngữ văn 8
- Bài 9 sgk ngữ văn 8
- Bài 10 sgk ngữ văn 8
- Bài 11 sgk ngữ văn 8
- Bài 12 sgk ngữ văn 8
- Bài 13 sgk ngữ văn 8
- Bài 14 sgk ngữ văn 8
- Bài 15 sgk ngữ văn 8
- Bài 16 sgk ngữ văn 8
- Bài 17 sgk ngữ văn 8
- Bài 18 sgk ngữ văn 8
- Bài 19 sgk ngữ văn 8
- Bài 20 sgk ngữ văn 8
- Bài 21 sgk ngữ văn 8
- Bài 22 sgk ngữ văn 8
- Bài 23 sgk ngữ văn 8
- Bài 24 sgk ngữ văn 8
- Bài 25 sgk ngữ văn 8
- Bài 26 sgk ngữ văn 8
- Bài 27 sgk ngữ văn 8
- Bài 28 sgk ngữ văn 8
- Bài 29 sgk ngữ văn 8
- Bài 30 sgk ngữ văn 8
- Bài 31 sgk ngữ văn 8
- Bài 32 sgk ngữ văn 8
- Bài 33 sgk ngữ văn 8
- Bài 34 sgk ngữ văn 8
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo