Soạn bài Ngắm trăng (Vọng nguyệt)

Soạn bài Ngắm trăng (Vọng nguyệt). Câu 2. Ở bài thơ này, Bác Hồ ngắm trăng trong hoàn cảnh như thế nào? Vì sao Bác lại nói đến cảnh “Trong tù không rượu cũng không hoa”?

Câu 1. Câu thứ nhất dịch sát với nguyên tắc, câu thứ hai của nguyên tắc có nghĩa là: “Trựớc cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?” Câu thơ dịch (Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ) đà bỏ đi cái xốn xang, bối rối được thể hiện ở lời tự hỏi “nại nhược hà” (biết làm thế nào?). Dịch là “khó hững hờ” thì lại cho thấy nhân vật trữ tình quá bình thản, có phần... hững hờ, chứ không rung cảm mạnh mẽ như trong câu thơ chữ Hán.

Hai câu sau của bài thơ chữ Hán có kết cấu đăng đối đáng chú ý, đối trong từng câu và đối hai câu với nhau:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia

Ở mỗi câu, chữ chỉ người (nhân, thi gia) và chữ chỉ trăng (nguyệt) đạt có hai đầu, ở giữa là cửa nhà tù (song), mặt khác, hai câu còn tạo thành một cặp đối, cũng người và trăng, minh nguyệt và thi gia đối với nhau. Với kết cấu đó, bài thơ có một hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Hai câu thơ dịch đà làm mất đi câu trúc đăng đối, tức cũng giảm đi phần nào sức truyền cảm. Ngoài ra, câu thơ dịch thứ tư có hai từ gần đồng

Câu 2. - Vọng nguyệt (hay đối nguyệt, khản minh nguyệt) là một thi đề rất phổ biến trong thơ xưa. Thi nhân xưa, gặp cảnh trăng đẹp, thường đem rượu uống trước hoa để thưởng trăng: có rượu và hoa thì sự thưởng trăng mới thật mười phần thú vị, mĩ mãn. Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng khi thánh thơi, tàm hồn thư thái. Nhưng ở đây, Hồ Chí Minh đã ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt, trong ngục tù! Đang là một tù nhân bị đày đọa vô vàn cực khổ. Điều kiện sinh hoạt của cái nhà tù tàn bạo dã man mà tù nhân phải sống cuộc sống “khác loài người làm sao phù hợp với việc thưởng nguyệt! Làm sao có rượu và hoa đế thưởng trăng? Không thế cho rằng câu thơ này mang ý nghĩa phê phán (vì chắng có nhà tù nào là “nhân đạo” đến nỗi mỗi kỳ trăng sáng lại đem rượu và hoa đến cho tù nhân ngắm trăng!). Chi có thế hiểu rằng, trước cảnh đêm trăng quá đẹp, Hồ Chí Minh bỗng khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn và lấy làm tiếc không cỏ rượu và hoởi những gách nặng về vật chất, tâm hồn vẫn tự do, vẫn ung dung, vẫn thèm được tận hưởng cảnh trăng đẹp.

Câu thứ hai, có cái xốn xang, bối rối rất nghệ sĩ trước cảnh đêm trăng quá đẹp của Bác Hồ. Câu thơ cho thấy rõ tâm hồn nghệ sĩ đích thực của Người. Mà trong tù thì biết làm thế nào để có cuộc ngắm trăng thực sự, và vì vậy mà càng bứt rứt, bối rối. Người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, lão luyện ấy vẫn là một con người yêu thiên nhiên một cách say mê và hồn nhiên, đã rung động mãnh liệt trước cảnh trăng đẹp, dù đang là thân tù.

Câu 3. Cấu trúc cả hai câu đều thấy giữa nhân và nguyệt (Ngoài trời) có song sắt nhà tù chắn ở giữa. Tuy nhiên, người đà thả tâm hồn vượt ra ngoài cứa sắt nhà tù để tìm đến ngổm trăng sáng (khán minh nguyệt 1. tức là để giao hòa với vầng trăng tự do đang tỏa mộng giữa trời.

Đây không phải cuộc vượt ngục về tinh thần duy nhất cua người tù cách mạng Hố Chí Minh để tìm đến vầng trăng tri kỷ. Trong ba Trung tìm, Bác đàãviết:

Chống được tự do mà thưởng nguyệt Lòng theo vời vợi mánh trăng thu (Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt Tám tùy thu nguyệt cộng du du)

Và vầng trăng trong bài Ngắm trăng cũng vượt qua song sắt nhà tù để tìm đến “ngắm nhà thơ” (khán thi gia) trong tù. Vậy là ca người và trăng đều chu động tìm đến giao hòa cùng nhau, ngắm nhau say đăm. Cấu trúc đôi của hai câu chữ Hán đã làm nối bật “tình cảm song phương" đều mãnh liệt của cả người và trăng. Tất nhiên, đây là biện pháp nhân hóa của nghệ thuật, nhưng đã cho thấy với Bác Hồ, trăng đã hết sức gắn bó, thân thiết, trở thành tri âm tri kỷ từ lâu.

Hai câu thơ còn cho thấy sức mạnh tinh thần kỳ diệu của người chiến sĩ - thi sĩ ấy. Phía này là nhà tù đen tối, là hiện thực tàn bạo, còn ngoài kia là vầng trăng thơ mộng, là thế giới cái đẹp, bầu trời tự do, là lãng mạn say người, ở giữa hai thế giới đối cực đó là cửa sắt của nhà tù. Nhưng với cuộc ngắm trăng này, song sắt nhà tù đã trở nên bất lực, vô nghĩa trước những tâm hồn tri âm tri kỉ tìm đến với nhau.

Câu 4. Bài thơ vừa thể hiện tình cảm thiên nhiên đặc biệt sâu sắc, mạnh mẽ, một biếu hiện nổi bật của tâm hồn nghệ sĩ ở Bác Hồ, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ vĩ đại đó. Vì vậy có thế nói, đằng sau nhừữg câu thơ rất thơ đó lại là một tinh thần thép, mà biểu hiện ở đây là sự tự do nội tại, phong thái ung dung, vượt hắn lên sự đè nặng tàn bạo của tù ngục. Qua bài thơ, người đọc cảm thấy người tù cách mạng ấy dường như không chút bận tâm về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp, ghẻ lở... của chế độ nhà tù khủng khiếp, cũng bất chấp song sắt thô bạo của nhà tù, đã để tâm hồn bay bống tìm đến “đối diện đàm tâm” với vầng trăng tri âm.

Bài thơ là một chứng minh sinh động cho hai câu thơ Hồ Chí Minh viết ngoài bìa tập Nhật kí trong tù: “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ngoài lao”.

Câu 5. Một số bài thơ Bác viết về trăng:

-      Bài “Trung thu”:

Gương trăng vành vạnh giữa mùa thu,

Sáng khắp nhân gian bạc một màu,

Sum họp nhà ai ăn Tết đó Chẳng quên trong ngục kè ăn sầu

 

Trung thu ta cũng Tết trong tù,

Trăng gió đếm thu gợi vẻ sầu,

Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt.

Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.

(được viết khi Bác bị bắt giam ở nhà tù Tưởng Giới Thạch) 

-      Bài “Cảnh khuya"

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cố thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ:

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

-      Bài “Rằm tháng giêng" (Nguyên tiêu)

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.

(1948)

-      Bài “Đối trăng-” (Đối nguyệt):

Ngoài song, trống rọi cây sân,

Anh trăng nhích bóng cây gần trước song.

Việc quân, việc nước bàn xong,

Gối khuya ngon giấc bàn song trăng nhòm.

(được viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp)

Điều đáng lưu ý là thơ Bác dành một vị trí trang trọng cho trăng. Giữa trăng và thi nhân có một mối giao hòa đồng điệu như tri Am tri kí. Vì thế, viết về trăng, các bài thơ của Hồ Chí Minh bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, tinh tế trước cảnh sắc thiên nhiên. Bên cạnh phẩm chất nghệ sĩ ấy là cốt cách người chiến sĩ với phong thái ung dung, lạc quan, luôn hướng về ánh sáng. Mặt khác, các bài thư viết về trăng cho thấy một phong cách đặc sắc trong thơ trữ tình của Người, đó là sự hòa quyện giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại.

Các bài học liên quan
Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ nhận định sau:Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, ý chí sắt đá
Soạn bài Đi đường

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 8 mới cập nhật