Đề số 70: Phân tích Hồi trống cổ Thành (Trích hồi 28 - Tam quốc diễn nghĩa) để làm rõ ý nghĩa của hồi trống

Tam quốc diễn nghĩa là một trong những câu chuyện kinh điển về tình nghĩa anh em, quân thần thời phong kiến Trung Hoa và Hồi trống Cổ Thành là một trong những trường đoạn khiến người đọc phải lặng mình suy ngẫm về tình nghĩa giữa Quan Vũ và Trương Phi.

Bài làm

Tam quốc diễn nghĩa là một trong những câu chuyện kinh điển về tình nghĩa anh em, quân thần thời phong kiến Trung Hoa và Hồi trống Cổ Thành là một trong những trường đoạn khiến người đọc phải lặng mình suy ngẫm về tình nghĩa giữa Quan Vũ và Trương Phi.

Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là ba anh em kết nghĩa nhưng tình sâu hơn bể. Sự khác nhau về tính cách không khiến ba con người này trở nên mâu thuẫn bởi cả ba cùng chung một lí tưởng, một tâm nguyện. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, ba anh em phải tạm li tán. Và chính sự ly tán đó dẫn đến sự nghi ngờ trong lòng Trương Phi ở đoạn trích Hồi trống Cổ Thành này.

Rời Tào doanh, đến Cổ Thành, biết tin Trương Phi đang trấn giữ ở đây, Quan Công mừng rỡ vô cùng. Trong khi đó Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa bắc. Những tưởng Trương Phi sẽ thi lễ, đón hai chị và anh vào thành, vậy mà lại múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công. Thái độ của Trương Phi hoàn toàn đối lập với thái độ của Quan Công và gần như trái ngược với đạo lí làm em. Lẽ nào Trương Phi đã quên nghĩa vườn đào, quên mình là em mà hành xử với Quan Công như vậy. Nhưng Trương Phi cổ lý do để hành động như vậy. Nhân vật của La Quán Trung đứng trên hai lập trường (tình nghĩa anh em và nghĩa vua - tôi) để định tội Quan Công. Nhà văn tiếp tục dẫn mâu thuẫn đi xa hơn bằng cách để Trương Phi xưng mày - tao với Quan Công, luận giải tội trạng của Quan Công “bỏ anh, hàng Tào Tháo (...) lừa tao” và kết tội Quan Công bội nghĩa. Quan Công thanh minh, hai phu nhân cùng nói đỡ hộ nhưng Trương Phi vẫn không tin lời anh.

Mâu thuẫn truyện được đẩy lên một bậc khi đám quân của Sái Dương mang cờ Tào đuổi kịp Quan Công. Trương Phi càng có cớ để nghi ngờ lòng dạ Quan Công. Đám quân mã do Sái Dương dẫn đầu khiến Trương Phi nghĩ rằng Vân Trường đưa đến để bắt mình về quy hàng Tào Tháo. Tình thế éo le buộc Vân Trường phải hành động để chứng thực lòng mình với em: “Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta". Đến đây, La Quán Trung quyết định thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm bằng tình tiết hồi trống Cổ Thành.

Trước đề nghị của Quan Vân Trường, Trương Phi đã ra điều kiện - một điều! kiện khắc nghiệt: “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Ba hồi trống định mức thời gian để minh chứng cho một tấm lòng, ba hồi trống để giải oan, ba hồi trống để nhận diện nhân cách một con người cũng là ba hồi trống đầy thách thức. Nó quả là quá ngắn ngủi đối với một mạng người. Nó sẽ là một minh chứng nếu quả thật Quan Công do dự, dao động và không có tài nghệ, khí phách. Nhưng nó cũng là cơ hội để Quan Công minh oan, để hai anh em có thể đoàn tụ với nhau, để lời thề vườn đào năm xưa được giữ trọn. Nếu không có ba hồi trống, mối nghi ngờ trong lòng Trương Phi chỉ có thể giải tỏa bằng bát xà mâu. Và lúc đó, khó có thể hình dung giữa Trương Phi và Quan Công - hai anh em ngang tài ngang sức, ai sẽ là người chiến thắng, ai là người phải hi sinh. Tình thế đó buộc Quan Vân Trường phải hành động gấp rút. Chưa dứt một hồi trống, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Mâu thuẫn được hóa giải, nút thắt đầy kịch tính được tháo bỏ. Chi tiết Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường thể hiện tình cảm chân thành của người em cương trực, thẳng thắn, nghĩa dũng đối với người anh của mình.

Đến cuối đoạn trích, hồi trống mới xuất hiện nhưng nó đã thực thi nhiệm vụ quan trọng: hóa giải mối nghi ngờ giữa hai anh em Quan Vũ - Trương Phi. Trở lại với diễn biến câu chuyện phía trước, có thể thấy đó là hồi trống ra quân và cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, minh oan và đoàn tụ. Cuộc hội ngộ của hai anh em không có rượu, chỉ có hồi trống trận. Nó cũng chính là một thành công trong nghệ thuật kể chuyện đặc Sắc của nhà văn La Quán Trung.

Các bài học liên quan
Đề số 66: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ (“Thu hứng”) tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực rộng lớn. Nêu ý kiến của anh (chị).
Đề số 65: Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của anh (chị) về tình bạn của hai thi nhân trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lý Bạch). Liên hệ với tình bạn trong cuộc sống, lao động, học tập của anh (chị).
Đề số 64: Anh (chị) hãy tự đặt mình vào vị trí của người đưa tiễn nhìn theo cánh buồm dần xa và dòng sông chảy vào cõi trời để cảm nhận tâm tình của thi nhân trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.
Đề số 62: Cảm nhận của anh (chị) về số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số tác phẩm văn học trung đại đã học: Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều).
Đề số 61: Viết bài ngắn (khoảng 20 câu) nêu cảm nhận về vẻ đẹp của người phụ nữ qua hai tác phẩm Truyện Kiều và Chuyện người con gái Nam xương.
Đề số 60: Đại thi hào Nguyễn Du đã từng tâm sự: Thôn ca sơ học tang ma ngữ (Học được tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai). Hãy minh họa bằng các đoạn trích đã học trong Truyện Kiều.

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 10 mới cập nhật