Đề số 54: Phân tích tâm sự của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh kí

Không phải đến Nguyễn Du cảm hứng về thân phận con người mới xuất hiện trong văn học Việt Nam nhưng một điều chắc chắn là chỉ đến nhà thơ, cuộc đời, số phận con người mới trở thành cảm hứng chủ đạo, thành chủ đề xuyên suốt các trang viết và gợi trong tác giả nhiều tâm sự sâu sắc.

Bài làm

Không phải đến Nguyễn Du cảm hứng về thân phận con người mới xuất hiện trong văn học Việt Nam nhưng một điều chắc chắn là chỉ đến nhà thơ, cuộc đời, số phận con người mới trở thành cảm hứng chủ đạo, thành chủ đề xuyên suốt các trang viết và gợi trong tác giả nhiều tâm sự sâu sắc. Và dù là câu chuyện dài như Truyện Kiều hay chỉ với bài thơ ngắn như Độc Tiểu Thanh kí, chúng ta đều có thể cảm nhận được những nỗi niềm tâm sự đó.

Độc Tiểu Thanh kí được gợi hứng từ cuộc đời và số phận của một người con gái Trung Quốc tên là Tiểu Thanh. Tiểu Thanh vốn là cô gái nhan sắc và có tài thi ca, âm nhạc, sống khoảng đầu đời Minh. Nàng làm lẽ một nhà quyền quý. Nhưng thật không may, người vợ cả vốn hay ghen đã bắt nàng phải ra núi Cô Sơn ở. Vì đau buồn, nàng mất khi mới mười tám tuổi. Những bài thơ nàng viết phần lớn bị người vợ cả đốt hết. Người đời sau sưu tầm được một số bài còn sót lại, đặt tên là Phần dư. Cảm thương cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã viết bài thơ như một tiếng khóc lớn dành cho nàng:

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Tiếng khóc Nguyễn Du khởi phát từ nhất chỉ thư, nghĩa là mảnh giấy. Mảnh giấy này là vật chứng lưu ký bao tâm sự của một con người. Mảnh giấy tàn trước cửa sổ ám chỉ số phận chống tàn, mong manh, khái quát về số phận, giá trị tinh thần bị hủy hoại, quên lãng, vùi dập, đương nhiên, trong đó có Tiểu Thanh. Người nghệ sĩ đa mang không khóc thương cho những cái trọn vẹn, đầy đặn mà lại xúc động trước cái mong manh, dở dang gắn liền với số phận của con người bạc mệnh. Điều đặc biệt là không có ai khóc cùng Nguyễn Du. Chữ độc đứng đầu dòng thơ nhấn mạnh tâm thế của tác giả - đó là tâm thế xót thương trong nỗi cô đơn. Chỉ riêng một mình nhà thơ thấm thía về cuộc đời, thân phận mong manh của con người. Suy cho rộng, Tiểu Thanh chính là cái cớ để Nguyễn Du thể hiện triết lí của mình về “tài mệnh tương đố”. Nói như vậy cũng có nghĩa Nguyễn Du không chỉ khóc thương riêng người con gái họ Phùng mà còn khóc cho biết bao thân phận phụ nữ khác:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
                                               (Truyện Kiều)

Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh hướng tới hai giá trị cụ thể:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
      Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Chi phấn (son phấn) và văn chương là những thứ biểu trưng cho vẻ đẹp hình Bắc và cái đẹp tâm hồn. Điều này không khó lý giải bởi lẽ ai cũng biết Tiểu Thanh là người con gái có nhan sắc và hết sức tài hoa. Son phấn có thần nên vẫn phải ôm hận kể cả sau khi chết, văn chương không có thân mệnh cụ thể nhưng phải chịu sự hành hạ, phải mang lụy. Cái đẹp nói chung đều phải chịu sự chà đạp. Nỗi đau thể xác và bi kịch tinh thần được đồng nhất trong số phận oan nghiệt của một cuộc đời. Lời thơ đong đầy nỗi niềm tiếc thương, xót xa, đau đớn. Nhan sắc ấy, tài năng ấy có lẽ đâu lại phải chịu đựng sự chà đạp phũ phàng nhường vậy? Nguyễn Du đã khóc cho bao nhiêu người con gái như Tiểu Thanh, đã nhỏ lệ cho bao nhiêu số phận cay đắng như nàng? Thật khó để kể cho hết. Nhưng có thể hiểu rằng, trước bất kỳ sự lụi tàn, đau đớn của một nhan sắc, một tài hoa - nghệ sĩ nào, nước mắt nhà thơ cũng tuôn rơi đầy xót thương và hết sức chân thành. Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh cũng chính là tiếng khóc nhà thơ dành cho những số kiếp “tài hoa bạc mệnh” như nàng. Tâm sự đó được nhà thơ tiếp tục triển khai trong những dòng tiếp theo:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Cổ kim hận sự là nỗi hờn về sự bất công của số phận. Nhà thơ nhận thức về quy luật tài hoa bạc mệnh, tài tử đa cùng, người có tài hoa, trí tuệ thì số phận long đong. Đó là nỗi bất công ngự trị từ xưa đến nay, là bi kịch đã được khái quát hóa, được đồng nhất. Mặt khác, chúng ta có thể nhận thấy từ cuộc đời của một người con gái, nhà thơ muốn hỏi cho rõ nguyên nhân gây nên bi kịch nói chung của thời đại chứ không riêng của dân tộc, thân phận cụ thể nào. Đến đây, có thể cảm nhận rất rô rằng tiếng khóc của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí không chỉ hướng tới cuộc đời, số phận cụ thể là nàng Tiểu Thanh mà còn hướng tới tất cả những người tài hoa, phong nhã, không phân biệt nam hay nữ (những kẻ phong vận), tất nhiên trong đó có ông. Tiếng khóc ấy không chỉ chan chứa yêu thương mà còn rất chân thành, xúc động bởi lẽ tác giả đã tự đặt mình vào thế giới của những kẻ phong vận kia. Điều đó chứng tỏ người nghệ sĩ của chúng ta ý thức rất rõ về bản thân mình. Ông nhận mình cũng là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh: Tráng niên ngã diệc, vi tài tử. Không phải Nguyễn Du tự ngạo nhưng quả thật đúng như vậy. Số phận của Nguyễn Du, Tiểu Thanh đều bất hạnh như nhau. Tự nhận là người cùng hội cùng thuyền cũng có nghĩa là nhà thơ thừa nhận sự tri âm, đồng điệu giữa bản thân mình và người thiên cổ đã đạt đến mức độ tuyệt đối. Đó là sự tri âm, đồng điệu giữa những con người tài hoa, bạc mệnh. Vậy nên tiếng khóc của Nguyễn Du không phải là tiếng khóc của đấng tu mi nam tử đoái thương cho số phận người đàn bà mà là tiếng khóc của người trong cuộc, của người Cùng một lứa bên trời lận đận (Long Thành cầm giả ca). Chưa ai trả lời cho Nguyễn Du được nguyên nhân của bi kịch đó để rồi khóc người thiên cổ, nhà thơ lại đoái thương cho chính bản thân mình:

Bất tri tam bách dư niên hậu,
   Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Từ hiện tại, Nguyễn Du khóc thương cho quá khứ, cho người trong quá khứ. Và bất chợt nhà thơ tự hỏi ba trăm năm sau sẽ ai khóc thương mình. Thương người, ngẫm bi kịch của người, khóc cho người rồi thương chính bản thân mình, điều đó cho thấy nhà thơ đã tự đặt mình vào số phận chung của những tấn bi kịch. Tiểu Thanh mệnh bạc nhưng ba trăm năm sau cũng có người cùng hội cùng thuyền là Nguyễn Du thương xót. Nỗi đau của nàng đã được xoa dịu một chút nơi chín suối. Nhưng liệu rằng điều đó có lặp lại với ông? Ba trăm năm chỉ là con số ước lệ, Tri ân, tri kỉ. Nguyễn Du, cảm nhận sâu sắc tấm lòng vị tha, đã mang của nhà thơ trước cuộc đời, trước con người, bất cứ, ai chẳng đồng điệu, chẳng muốn tri âm với ông. Câu hỏi của Nguyễn Du hướng tới tương lai chứ không cho hiện tại, có thể vì ông không tìm thấy sự đồng cảm trong hiện tại. Đó là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lý về thuyết tài mệnh tương đố. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình. Sẽ còn có những trái tim đa cảm như Nguyễn Du, sẽ còn những giọt nước mắt khóc cho những số phận cay đắng của người nghệ sĩ tài hoa mà mệnh bạc.

Qua nỗi niềm cảm thương Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã thể hiện những tâm sự thầm kín nhất trong cõi lòng mình. Thương người rồi lại thương mình, thương người rồi mới thương ta (Lâm Thị Mỹ Dạ), đó chính là chiều sâu trong tư tưởng nhân văn của con người có trái tim vĩ đại - Nguyễn Du - nhà đại hào của dân tộc Việt Nam.

Các bài học liên quan
Đề số 50: Phân tích giá trị nhân đạo thể hiện trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm).
Đề số 48: Phân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ sau:  Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà. (Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)
Đề số 47: Phân tích giá trị của những từ Hán Việt trong bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan: Tạo hóa gây chi cuộc hý trường,... Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Đề số 46: Huy Cận đã viết: Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững... Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà. Những câu thơ trên có thể gợi cho anh (chị) hiểu thêm điều gì về nội dung của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng?...
Đề số 45: Phân tích cấu trúc cân đối của các câu thơ sau và chỉ ra ý nghĩa, vẻ đẹp của chúng: Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,.. Dắng dỏi cầm ve, lầu tịch dương. (Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi).

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 10 mới cập nhật