Em hãy giới thiệu về kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du
Kiệt tác Truyện Kiều được viết nên bởi một đại thi hào của dân tộc: Nguyễn Du. Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Bài học cùng chủ đề:
- Phân tích truyện Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ.
- Phân tích giá trị hiện thực của đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ).
- Bài số 128: Câu chuyện về tiếng kêu cứu của môi trường.
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
BÀI LÀM
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn" (Phạm Quỳnh).
Kiệt tác Truyện Kiều được viết nên bởi một đại thi hào của dân tộc: Nguyễn Du. Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc mà cha và anh trai đều lần lượt làm tể tướng cho nhà Lô. Tuy nhiên, ông cũng sớm chịu nhiều thiệt thòi: mẹ và cha mất khi ông còn nhỏ, ông phải ở nhờ nhà anh trai. Sau đó, các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nể, cuộc đời Nguyễn Du cũng phải nếm nhiều cảnh chìm nổi.
Truyện Kiều thuộc thể loại truyện Nôm bác học. Truyện Nôm là tác phẩm tự sự dài, làm bằng văn vần tiếng Việt, ghi bằng chữ Nôm. Truyện Nôm ra đời vào thế kỉ XVI, XVII và phát triển mạnh mẽ ở thế kỉ XVIII; đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thì sáng tác ít dần. Truyện Nôm lúc đầu có tác phẩm viết bằng thơ Đường luật nhưng càng về sau phổ biến là viết bằng thể thơ lục bát. Có hai loại truyện Nôm: truyện Nôm bình dân viết trên cơ bởi chuyện kể dân gian và truyện Nôm bác học viết trên cơ sở cốt truyện có sẵn của văn học Trung Quốc (Truyện Kiều thuộc loại này); có tác phẩm xây dựng theo cốt truyện.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều dựa theo Kim Vân Kiều truyện, tiểu thuyết chương hồi cỡ nhỏ (gồm 20 hồi) của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Thời điểm sáng tác Truyện Kiều tuy chưa xác định được nhưng nhiều nhà khoa học phỏng đoán rằng, tác phẩm được sáng tác trong quá trình dài, bắt đầu từ thời gian “mười năm gió bụi” ở Thái Bình (1789), được hoàn thiện tiếp vào thời gian về Nghỉ Xuân (1796) cho đến khi Nguyễn Du ra làm quan dưới triều Nguyễn (1802).
Truyện Kiều được Nguyễn Du đặt tên là Đoạn trường tân thanh, gồm 3254 câu thơ lục bát. Nguyễn Du đã biến một câu chuyện tình thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, gián tiếp phản ánh những sự thực đồng buồn trong giai đoạn lịch sử cuối Lê, đầu Nguyễn, thể hiện lòng thương cảm vô hạn đối với con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo, về sự báo oán tàn nhẫn và một số chi tiết dung tục trong tác phẩm của Thanh Tôm Tài Nhân, thay đổi thứ tự kể và sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tạo ra một thế giới nhân vật sống động như thật; biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể; chuyển trọng tâm của truyện từ việc kể sự kiện sang biểu hiện nội tâm nhân vật, làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn và tác phẩm trở thành một bách khoa thư của muôn vàn tâm trạng.
Tác phẩm mang những giá trị nội dung tư tưởng sâu sắc.
Trước hết, đó là nội dung nhân đạo. Tác phẩm là bài ca tình yêu tự do và ước mơ công lí. Chủ đề này được thể hiện tập trung ở mối tình giữa Thúy Kiều - Kim Trọng và hình tượng nhân vật Từ Hải. Đó cũng là tiếng khóc cho số phận con người: khóc cho tình yêu trong trắng, chân thành bị tan vỡ; khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan; khóc cho nhân phẩm bị chà đạp; khóc cho thân xác con người bị đày đọa.
Truyện Kiều còn mang giá trị hiện thực: là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến (quan tham, nhà chứa...), phanh phui sức mạnh làm tha hóa con người của đồng tiền; bị ràng buộc bởi thế giới quan trung đại, Nguyễn Du tuy cũng lên án tạo hóa và số mệnh, nhưng bằng trực cảm nghệ sĩ, ông đã vạch ra đúng ai là kẻ chà đạp quyền sống của con người trong thực tế.
Về nghệ thuật, Truyện Kiều rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Tác phẩm thể hiện một nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, vừa có nét điển hình, vừa có nét riêng rất nổi bật, đặc biệt là tâm lí nhân vật, chỉ cần một đôi lời cô đọng là làm lộ ngay thần thái của nó. Về nhân vật chính diện, Nguyễn Du tả bằng bút pháp ước lệ, chọn những hình ảnh ước lệ tiêu biểu nhất để nhân vật có được nét cá thể không nhầm lẫn với các nhân vật ước lệ khác trong văn chương trung đại Việt Nam. Với nhân vật phản diện ông lại dùng bút pháp tả thực để lột tả cho đầy đủ “cái xác phàm của chúng” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có thể nói, với mỗi nhân vật dù là phản diện hay chính diện, Nguyễn Du thường tìm được nét thần thái của nhân vật để miêu tả, dù chỉ đôi dòng hay vài chữ mà lột tả được cả bản chất nhân vật.
Nghệ thuật kể chuyện trong Truyện Kiều cũng là một thành công đáng kể. Tác phẩm là mẫu mực của nghệ thuật kể chuyện và trữ tình bằng thơ lục bát, với bút pháp trần thuật và giới thiệu nhân vật độc đáo, bút pháp miêu tả tinh
tế; nhất là nghệ thuật trần thuật từ điểm nhìn nhân vật, làm cho sự việc, cảnh vật thấm đẫm cảm xúc và thế giới tình cảm của nhân vật được bộc lộ một cách trực tiếp.
Nhưng Truyện Kiều được đánh giá cao hơn cả về mặt thể loại và ngôn ngữ: Tác phẩm là kết tinh tinh hoa văn học dân tộc trên phương diện ngôn ngữ và thể loại.
Ngôn ngữ Truyện Kiều rất trong sáng. Trong tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Những từ ngữ Hán Việt được sử dụng đều có chọn lọc với mức độ vừa phải, sử dụng hợp lí và đúng chỗ, đúng lúc. Bên cạnh đó, phần nhiều là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, là ca dao, tục ngữ, thành ngữ được vận dụng một cách nhuần nhị và khéo léo. Lời văn trong Truyện Kiều viết cách đây mấy trăm năm mà bây giờ đọc vẫn có cảm giác hiện đại. Ngôn ngữ dành cho nhân vật được cá thể hóa cao độ, lời nhân vật nào phù hợp nhân vật ấy, làm rõ thần thái nhân vật ấy, không thể lẫn lộn ngôn ngữ của nhân vật này với nhân vật khác dù cùng thuộc hệ thống nhân vật chính diện hoặc phản diện. Qua tác phẩm, Nguyễn Du đã làm cho ngôn ngữ dân tộc được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật, đủ sức diễn tả những biến thái của cảnh sắc thiên nhiên và những biểu hiện tinh tế trong tâm hồn con người.
Thể thơ lục bát được sử dụng hết sức điêu luyện, ưu thế của thể loại được vận dụng một cách tối đa nên đã đủ sức diễn tả nhiều sắc thái của cuộc sống và những biểu hiện tinh tế trong đời sống tâm hồn con người. Nhờ tài năng và vốn kiến thức sẵn có, Nguyễn Du đã thành công đặc biệt trong việc xây dựng được một tiểu thuyết bằng thơ lục bát, cả một thiên tiểu thuyết không một câu nào gượng ép. Vì thế, tác phẩm được đông đảo nhân dân yêu thích và sử dụng trong đời sống, làm lời hát ru, làm sách bói... Có người, dù vốn kiến thức hạn chế nhưng thuộc cả Truyện Kiều, thậm chí có nhiều trang còn thuộc ngược từ dưới lên...
Truyện Kiều là kiệt tác số một của dân tộc Việt Nam, di sản văn học của nhân loại, là một “tập đại thành” của truyền thống nghệ thuật, văn hóa Việt Nam, tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng “nghĩ tới muôn đời”, vừa là thái độ nâng niu, vun vén cho những giá trị nhân bản cao đẹp của con người.
LUYỆN TẬP
1. Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
2. Vẻ đẹp và số phận đầy bi kịch của người phụ nữ qua một số tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
3. Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều qua các đoạn trích đã học và đọc thêm trong Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1.
4. Những thành công về nghệ thuật của Truyện Kiều qua các đoạn trích đã học và đọc thêm trong Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1.
5. Nêu giá trị nội dung của Truyện Kiều (Nguyễn Du) bằng một đoạn văn (khoảng 10 - 15 câu) sử dụng phép lập luận quy nạp.
6. Viết một đoạn văn (khoảng 4 đến 6 câu) nêu vắn tắt cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du.
7. Viết bài ngắn (khoảng 20 câu) trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của người phụ nữ qua hai tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
8. Truyện cổ dân gian, truyện nôm khuyết danh của dân tộc ta đều có chung một kiểu kết thúc có hậu. Truyện Kiều của Nguyễn Du có như vậy không? Em có nhận xét gì về lối kết thúc này nói chung và đối với Truyện Kiều nói riêng.
9. Bàn về giá trị hiện thực và tố cáo của Truyện Kiều, Đặng Thai Mai viết: “Truyện Kiều là một bản cáo trạng bằng thơ, bằng hình tượng nghệ thuật, để bộc lộ tất cả cái thôi tha của chế độ phong kiến đang sa đọa trên con đường tan rã”. (Đặc sắc của vốn học cổ điển qua nội dung Truyện Kiều - Tập san Đại học Sư phạm số 3 tháng 9 năm 1995)
Bằng những hiểu biết của em về Truyện Kiều hãy chứng minh ý kiến trên.
- Bài 1 sgk ngữ văn 9
- Bài 2 sgk ngữ văn 9
- Bài 3 sgk ngữ văn 9
- Bài 4 sgk ngữ văn 9
- Bài 5 sgk ngữ văn 9
- Bài 6 sgk ngữ văn 9
- Bài 7 sgk ngữ văn 9
- Bài 8 sgk ngữ văn 9
- Bài 9 sgk ngữ văn 9
- Bài 10 sgk ngữ văn 9
- Bài 11 sgk ngữ văn 9
- Bài 12 sgk ngữ văn 9
- Bài 13 sgk ngữ văn 9
- Bài 14 sgk ngữ văn 9
- Bài 15 sgk ngữ văn 9
- Bài 16 sgk ngữ văn 9
- Bài 17 sgk ngữ văn 9
- Bài 18 sgk ngữ văn 9
- Bài 19 sgk ngữ văn 9
- Bài 20 sgk ngữ văn 9
- Bài 21 sgk ngữ văn 9
- Bài 22 sgk ngữ văn 9
- Bài 23 sgk ngữ văn 9
- Bài 24 sgk ngữ văn 9
- Bài 25 sgk ngữ văn 9
- Bài 26 sgk ngữ văn 9
- Bài 27 sgk ngữ văn 9
- Bài 28 sgk ngữ văn 9
- Bài 29 sgk ngữ văn 9
- Bài 30 sgk ngữ văn 9
- Bài 31 sgk ngữ văn 9
- Bài 32 sgk ngữ văn 9
- Bài 33 sgk ngữ văn 9
- Bài 34 sgk ngữ văn 9
- Các thể loại văn tham khảo lớp 9