Đề số 23: Phân tích, so sánh lời ca của “khách” kết thúc bài Phú sông Bạch Đằng với bài thơ Sông Bạch Đằng (Bạch Đằng giang) của Nguyễn sưởng (bản dịch): Mồ thù như núi, cỏ cây tươi... Nửa do sông núi, nửa do người
Bạch Đằng là dòng sông ghi dấu nhiều chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Trên Bạch Đằng giang, nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và chiến thắng bao kẻ thù xâm lược - những tên đế quốc sừng sỏ nhất thời phong kiến.
- Bài học cùng chủ đề:
- Đề số 20: Bàn về bài thơ Thuật hoài của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận định: Nói ngắn gọn, khái quát, bài “Thuật hoài
- Dựa vào một số tác phẩm văn học từ năm 1930 đến nay, anh (chị) hãy chứng minh rằng văn học đã theo sát cuộc đấu tranh của dân tộc ta, phản ánh được những ước mơ và nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.
- Vận dụng kiến thức đã học về văn nghị luận, hãy viết bài phân tích ý nghĩa cao đẹp của tình bạn trong thời đại mới
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
Bài làm
Bạch Đằng là dòng sông ghi dấu nhiều chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Trên Bạch Đằng giang, nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và chiến thắng bao kẻ thù xâm lược - những tên đế quốc sừng sỏ nhất thời phong kiến. Cũng từ dòng sông ấy, cảm hứng văn chương được khơi dậy ở nhiều thi nhân: Trần Minh Tông (Bạch Đằng giang), Nguyễn Trãi (Bạch Đằng hải khẩu), Nguyễn Mộng Tuân (Hậu Bạch Đằng giang phú)... Với Trương Hán Siêu và Nguyễn Sưởng, viết về sông Bạch Đằng là ngợi ca sông núi, những con người đã làm nên bao chiến tích oanh liệt. Đó chính là nguồn cảm hứng cho đạo của Bạch Đằng giang phú và Bạch Đằng giang.
Binh pháp có quan niệm trong chiến tranh, muốn chiến thắng cần ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Trời cho thời cơ, đất cho thế hiểm và lòng người hòa hợp thì bách chiến bách thắng là lẽ đương nhiên. Đó là lí do hai lần đế quốc Nguyên Mông xâm lược nước ta là hai lần chúng thất bại thảm hại trước sức mạnh vô song của quân dân nhà Trần.
Khởi nguồn từ chiến công của Trần Quốc Tuấn trên sông Bạch Đằng năm 1288, bài phú của Trương Hán Siêu và bài thơ của Nguyễn Sưởng đều thể hiện lòng tự hào, kiêu hãnh về chiến thắng oanh liệt đó. Bằng sự chiêm nghiệm, các nhà văn đã đồng thanh những lời bình luận chính xác về chiến tích oai hùng của thời đại mình.
Lời ca của nhân vật “khách” cuối bài Phú sông Bạch Đằng và bài thơ Sông Bạch Đằng có sự thống nhất trong cách đánh giá căn nguyên thắng lợi của cuộc trận đánh trận sông Bạch Đằng. Cả ba yếu tố thiên - địa - nhân đều được hai nhà văn kể đến trong sáng tác của mình như một Cách lý giải nguyên nhân thắng lợi của lịch sử:
- Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
- Mồ thù như núi cỏ cây tươi
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết
Nửa do sông núi, nửa do người
Tuy nhiên, từ hai bài thơ, dễ dàng cảm nhận được quan điểm của Trương Hán Siêu và Nguyễn Sưởng không hoàn toàn trùng khít nhau trong cách đánh giá vị trí của từng yếu tố. Hai câu đầu bài thơ Nguyễn Sưởng cho thấy cảm hứng trữ tình của tác giả thiên về cảnh sắc thiên nhiên. Sông Bạch Đằng trong cái nhìn thi nhân có một địa thế hùng vĩ, oai linh. Hình ảnh so sánh mối thù như núi gợi niềm tự hào về chiến thắng của nhân dân, dân tộc. Đây là hình ảnh mang dấu tích chiến công năm xưa và hiện tại, Bạch Đằng giang mang một dáng hình đầy sức sống: cỏ cây tươi tốt. Nguyễn Sưởng đã ngầm định một lôgic trong câu thơ thứ nhất này: chiến thắng năm xưa là cội nguồn của sự sống tươi đẹp hôm nay, sức sống của hiện tại bắt nguồn từ chiến công trong quá khứ. Nhưng mặc cho thời gian, trời đất biến thiên, Bạch Đằng vẫn giữ khí phách oai hùng của mình:
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời
Tư thế của Bạch Đằng là tư thế sẵn sàng xung trận đầy thách thức. Trong lòng sông như vẫn tiềm tàng sức mạnh vô song. Ngợi ca địa thế hùng vĩ của dòng sông, cũng là cách Nguyễn Sưởng khẳng định vai trò của yếu tố địa linh trong chiến trận. Theo ông, địa linh, nhân kiệt là hai yếu tố làm nên một chiến thắng. Sở dĩ quân đội nhà Trần có thể thắng quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng là bởi sông núi (địa linh) và người (nhân kiệt) cùng hài hòa tác chiến. Không phủ nhận vai trò của con người - yếu tố nhân kiệt, thậm chí Nguyễn Sưởng đã cân bằng vị trí của cả hai yếu tố (Nửa do sông núi, nửa do người) nhưng rõ ràng cách ngợi ca hình thế sông núi ở những câu phía trước chứng tỏ Nguyễn Sưởng có phần nhấn mạnh yếu tố địa linh hơn.
Trương Hán Siêu trong Bạch Đằng giang phú cũng thể hiện rất rõ niềm tự hào của mình về sông núi, về chiến thắng của đội quân thời đại mình trên dòng sông lịch sử. Nhưng khi kết thúc bài ca, cảm hứng của nhà văn lại quy tụ về những vị anh hùng vĩ đại đã làm nên chiến thắng cho dân tộc. Trong bài ca tác giả đã khẳng định vai trò, vị trí của các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” một cách công bằng:
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an
Sau này Nguyễn Trãi, trong bài thơ Bạch Đằng hải khẩu cũng có cái nhìn tương tự!
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa từng
Và khi kết thúc bài phú, nhân vật “khách” lại một lần nữa cất lời ca ngợi núi sông, con người. Tuy nhiên, không như Nguyễn Sưởng, lời ngợi ca của “khách” lại nghiêng về phía yếu tố nhân kiệt. Lời ca được khởi hứng từ công lao của hai vị vua Trần (Anh minh hai vị thánh quân), sau đó mới nhắc đến sông núi (Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh). Và khi kết thúc lời ca, yếu tố con người được nhấn mạnh một cách rõ ràng (Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao). Thái độ khẳng định vai trò của nhân tố con người được thể hiện đậm nét trong cách nói của nhân vật “khách”. Yếu tố nhân kiệt, nhân hòa được tôn lên vị trí đầu tiên, gần như duy nhất. Cảm hứng trữ tình của Trương Hán Siêu gắn với tinh thần nhân văn. Trong cái nhìn của ông, con người, yếu tố con người mới là quyết định. “Thiên thời, địa lợi” nhưng “nhân” không “hòa” thì không thể có chiến thắng. Trong cuộc chiến đấu chống tên đế quốc sưng sỏ nhất thời đại bấy giờ nếu vua tôi triều Trần không đồng lòng, hòa mục, không cùng gắng sức, liệu rằng đất nước có sạch bóng quân thù. Trận Bạch Đằng do Trần Quốc Tuấn chỉ huy đã giáng một đòn chí mạng vào đạo quân vốn vẫn huênh hoang ỷ thế quân đông sức mạnh. Chính tài trí con người mới là nhân tố mang đến chiến thắng cho dân tộc. Nêu cao vai trò, vị trí của con người, Trương Hán Siêu đã thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng nhân văn của mình. Và có lẽ, chính điều đó làm nên thành công nổi bật cho bài phú này.
Từ bài ca của nhân vật “khách” trong Bạch Đằng giang phú và bài thơ Bạch Đằng giang của Nguyễn Sưởng, có thể thấy những chiến thắng lịch sử trên dòng sông này đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn chương. Cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử của các nhà thơ cho thấy quan điểm, tư tưởng của họ. Mỗi nhận định có một lập trường riêng và việc cảm nhận, đồng tình hay không là thuộc về mỗi chúng ta.
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo
- Tuần 1 sgk ngữ văn 10
- Tuần 2 sgk ngữ văn 10
- Tuần 3 sgk ngữ văn 10
- Tuần 4 sgk ngữ văn 10
- Tuần 5 sgk ngữ văn 10
- Tuần 6 sgk ngữ văn 10
- Tuần 7 sgk ngữ văn 10
- Tuần 8 sgk ngữ văn 10
- Tuần 9 sgk ngữ văn 10
- Tuần 10 sgk ngữ văn 10
- Tuần 11 sgk ngữ văn 10
- Tuần 12 sgk ngữ văn 10
- Tuần 13 sgk ngữ văn 10
- Tuần 14 sgk ngữ văn 10
- Tuần 15 sgk ngữ văn 10
- Tuần 16 sgk ngữ văn 10
- Tuần 17 sgk ngữ văn 10
- Tuần 18 sgk ngữ văn 10
- Tuần 19 sgk ngữ văn 10
- Tuần 20 sgk ngữ văn 10
- Tuần 21 sgk ngữ văn 10
- Tuần 22 sgk ngữ văn 10
- Tuần 23 sgk ngữ văn 10
- Tuần 24 sgk ngữ văn 10
- Tuần 25 sgk ngữ văn 10
- Tuần 26 sgk ngữ văn 10
- Tuần 27 sgk ngữ văn 10
- Tuần 28 sgk ngữ văn 10
- Tuần 29 sgk ngữ văn 10
- Tuần 30 sgk ngữ văn 10
- Tuần 31 sgk ngữ văn 10
- Tuần 32 sgk ngữ văn 10
- Tuần 33 sgk ngữ văn 10
- Tuần 34 sgk ngữ văn 10
- Tuần 35 sgk ngữ văn 10