Đề số 21: Qua những lời thơ Thuật hoài Tỏ Lòng, anh (chị) thấy hình ảnh trưng nam nhi thời Trần mang về đẹp như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì với thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai?

Thời đại lịch sử nào cũng có những con người làm nên hình ảnh cho nó. Và nhà văn luôn là người mang vào các tác phẩm văn chương con người thời đại mình. Đó là lý do đọc Thuật hoài hay bất cứ sáng tác văn học thời Trần nào, chúng ta cũng có thể cảm nhận rõ ràng hình ảnh trang nam nhi - hình ảnh tuyệt đẹp của thời đại này.

Bài làm

Thời đại lịch sử nào cũng có những con người làm nên hình ảnh cho nó. Và nhà văn luôn là người mang vào các tác phẩm văn chương con người thời đại mình. Đó là lý do đọc Thuật hoài hay bất cứ sáng tác văn học thời Trần nào, chúng ta cũng có thể cảm nhận rõ ràng hình ảnh trang nam nhi - hình ảnh tuyệt đẹp của thời đại này.

     Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
    Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Có thể nói triều Trần là một trong những triều đại anh hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Lập nên những chiến công oanh liệt, dệt nên bản tráng ca cho non sông, đất nước, cho thời đại đó chính là quan quân tướng sĩ - những đấng bậc anh hào. Không chỉ Thuật hoài mà từ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu) hay từ nhiều sáng tác văn học khác, chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng vẻ đẹp của những trang nam nhi thời đại này.

Ấn tượng đầu tiên bài thơ gieo vào lòng người đọc là hình ảnh con người kì vĩ. Chỉ bằng một nét vẽ đơn giản, tư thế, hành động người anh hùng đã in dấu ấn đậm nét trong tâm trí người đọc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Nó khác với “cầm giáo”, “múa giáo”. Hoành sóc gợi tả sự oai phong, lẫm liệt của tư thế. Không cần nói đến khí phách nhưng lại lột tả một cách chính xác về khí phách hiên ngang tiềm chứa trong con người thời đại. Trong hoành sóc còn có sự chủ động chiến đấu và chiến thắng, còn có sự thách thức đầy ngạo nghễ. Hiện lên trước mắt chúng ta là hình ảnh đấng anh hào phi thường. Cái phi thường đó còn được nhân lên gấp bội khi tác giả đặt con người trong không gian và thời gian trường cửu. Sự rộng lớn, kì vĩ của không gian được thu hết vào hai chữ giang sơn. Không gian ấy khiến cho cây giáo của tráng sĩ trở thành trường giáo, và theo đó, tầm vóc con người càng trở nên vĩ đại hơn. Và để không gian trở nên vô tận, con người trở nên phi thường, tác giả lại đặt tất cả trong thời gian đằng đằng kháp kỉ thu. Thời gian khiến hình tượng thơ không im lìm, bất động mà có sự vận động. Điều đó cũng có nghĩa tầm vóc, tư thế phi thường, vĩ đại kia không thuộc về một thời khắc riêng biệt nào mà nó là tầm vóc, tư thế của cả một thời đại lịch sử. Sự dài rộng của không gian và thời gian xuất hiện phía sau chính là phông nền tôn cao hơn hình tượng trang nam tử được khắc họa thông qua hành động hoành sóc ban đầu.

Nếu câu thơ đầu tiên phác họa chân dung chung nhất cho hình tượng tráng sĩ thời Trần thì câu thơ thứ hai là nét vẽ về quân đội hùng hậu. Đến đây; sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội bằng cách gọi tam quân, bằng nghệ thuật so sánh (tì hổ) và phép ẩn dụ (khí thôn ngưu). Sức mạnh con người được hình tượng hóa bằng sức mạnh của những loài mãnh thú, được nhấn mạnh ở sự vô biên, tất cả sức mạnh của vũ trụ. Làm nên sức mạnh phi thường này chẳng phải là sức vóc tráng kiện của quan quân tướng sĩ nhà Trần sao? Hai câu đầu cho phép người đọc hình dung về những tráng sĩ với sức mạnh vô song, với khí thế “sát thát” ngút trời. Phải ý thức thật sâu sắc về vị trí, tầm vóc, sức mạnh con người thời đại mình, Phạm Ngũ Lão mới có thể viết những câu thơ ngắn gọn mà tuyệt đẹp như vậy.

Song hành cùng vẻ đẹp phi thường, vĩ đại toát ra từ tư thế, tầm vóc là vẻ đẹp của ý chí, của lí tưởng con người. Thời phong kiến, các lãng tử mi nam tử luôn mang trong mình chí làm trai, luôn có giấc mộng công danh cao đẹp. Từ câu ca dân gian:

Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài an

đến lời thơ Nguyễn Công Trứ cuối thế kỉ XIX:

   Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông

dường như chí anh hùng đã trở thành lý khí xuyên mọi thời đại. Con người đã có tầm vóc cao lớn, có hành động phi thường ắt phải mang trong mình hoài bão lớn lao. Có điều, hoài bão ấy lại được giấu kín sau nỗi “thẹn”, lại khuất sau nỗi trằn trọc khi tự kiểm điểm về bản thân mình: Công danh nam tử còn vương nợ. Không phải giấc mộng công danh của con người thời đại này quá lớn, lớn đến mức không tưởng. Cũng không phải con người không có khả năng biến giấc mộng công danh thành hiện thực, không có khả năng trả món nợ công danh. Với những chiến công hiển hách của mình, Phạm Ngũ Lão hay những trang nam tử hào kiệt thời Trần có quyền ngẩng cao đầu tự hào về chính bản thân mình. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng tướng quân họ Phạm nói riêng và các đấng nam từ thời đại nhà Trần nói chung dường như không bao giờ bằng lòng với chính mình, chính vì nghiêm khắc với bản thân, không tự thỏa mãn với những gì mình làm được nên con người mới mang trong mình nỗi “thẹn”, Tự sánh mình với Gia Cát Khổng Minh không phải là biểu hiện của sự tự cao, tự đại. Thực ra soi mình vào chuẩn mực của đạo đức phong kiến, Phạm Ngũ Lão muốn thể hiện khát vọng hoàn thiện mình. Và nỗi thẹn của người là nỗi thẹn làm nên nhân cách.

Bài thơ vẻn vẹn hai mươi tám chữ nhưng mỗi chữ viết ra đều khiến người đọc phải ngẫm nghiệm, suy tư. Đọc bài thơ, không chỉ cảm nhận được về vẻ đẹp toàn thiện của tác giả nói riêng và của con người thời Trần nói chung, mà từ đó, người đọc còn có thể rút ra nhiều ý nghĩa cho chính bản thân mình. Hình ảnh đáng nam nhi thời Trần chắc chắn có sức ảnh hưởng lớn đến thế hệ thanh niên thời đại mới. Tất nhiên, sự khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, xã hội... sẽ khiến cho con người ở các thời đại không trùng khít nhau. Nhưng đó không phải là trở lực khiến thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai không học hỏi được từ cha ông những điều tốt đẹp. Thanh niên Việt Nam thời hiện đại được sống trong hòa bình, nhưng điều đó không có nghĩa họ không phải chiến đấu và chiến thắng. Hơn khi nào hết, con người thời hiện đại nói chung, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam ý thức rất cao về tầm vóc, vị trí của mình. Họ hiểu sức mạnh của cá nhân mình là sức mạnh thuộc về cộng đồng. Đó là lý do họ không ngại ngần cống hiến. Bao sinh viên Việt Nam đã nhiệt tình hưởng ứng tháng tình nguyện “Mùa hè xanh”. Họ không ngại ngần đi đến các miền xa xôi của Tổ quốc, không ngại ngần cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với đồng bào miền núi, hải đảo. Đó là lý do khiến thế hệ trẻ Việt Nam ngày càng hăng say học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành nhân tài cho đất nước. Và rõ ràng vị trí của nước ta trên trường quốc tế được khẳng định một phần nhờ những chiến thắng của sức trẻ, của lực lượng thanh niên. Thế hệ trẻ ngày nay luôn tự tin vào tài trí, bản lĩnh của mình nên họ không mang trong mình nỗi “thẹn” như đấng anh hùng năm xưa. Nhưng điều đó không có nghĩa thanh niên Việt Nam không mang trong mình hoài bão, khát vọng công danh. “Học vì ngày mai lập nghiệp” vừa là một phong trào, vừa trở thành mục tiêu phấn đấu của hàng triệu thanh niên thời đại mới. Điều kiện sống, điều kiện học tập không ngừng được cải thiện nhưng đó không trở thành lý do khiến các bạn trẻ tự thỏa mãn và dinh dưỡng bản thân mình. Mọi đỉnh cao văn hoá, trí tuệ của loài người đều có lực hút mạnh mẽ đối với thanh niên ngày nay. Và càng thành công, họ càng khao khát được chiếm lĩnh sâu rộng hơn nữa. Họ làm những điều đó tất nhiên không vì chính bản thân mình mà còn vì cộng đồng, vì Xã hội, vì đất nước Việt Nam này.

Có thể nói ý thức về tầm vóc, vị trí của bản thân và khát vọng công danh, khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai không chỉ là sự kế thừa truyền thống của cha ông mà còn là phẩm chất với có trong mỗi con người thời đại mới. Điều có nhân tâm niệm từ ngàn xưa đã, đang và sẽ mãi còn có ý nghĩa to lớn đối với sự đi lên của mỗi thế hệ, mỗi thời đại.

Các bài học liên quan
Đề số 16: Người ta có thể rút ra nhiều bài học khác nhau từ một câu chuyện ngụ ngôn. Hãy làm sáng tỏ điều đó qua một truyện ngụ ngôn mà anh (chị) đã được học.
Đề số 15: Phân tích truyện cười Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày để làm rõ các đặc trưng của thể loại truyện cười.
Đề số 13: Vẻ đẹp của người lao động thể hiện qua các bài ca dao than thân và yêu thương tình nghĩa đã học trong chương trình.
Đề số 12: Có ý kiến cho rằng: Cái gốc của ca dao hài hước, suy đến cùng, cũng là trữ tình, vì có yêu, có ghét, và đến một mức nào đó thì bật ra tiếng cười hài hước. Nêu ý kiến của anh (chị).

Bài học nổi bật nhất

Đề thi lớp 10 mới cập nhật