Đề số 104: Có ý kiến cho rằng: Thiếu sức tưởng tượng, tri thức không có tiềm năng phát triển. Anh (chỉ) có suy nghĩ gì? Bàn luận về ý nghĩa của sức tưởng tượng trong quá trình học tập
Một nhà giáo dục người Nga đã nói: Trí tưởng tượng linh hoạt, phong phú chính là đặc tính quan trọng của trí tuệ. Trí tưởng tượng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của con người.
- Bài học cùng chủ đề:
- Đề số 103: Anh (chị) hãy trình bày những suy nghĩ của mình về lòng dũng cảm.
- Đề số 102: Khan hiếm nước ngọt và những nguy cơ tiềm ẩn
- Đề số 101: Hạnh phúc là đấu tranh (C.Mác).
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
Bài làm
Một nhà giáo dục người Nga đã nói: Trí tưởng tượng linh hoạt, phong phú chính là đặc tính quan trọng của trí tuệ. Trí tưởng tượng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của con người.
Nếu không có trí tưởng tượng tốt, ta sẽ gặp khó khăn trong việc hiểu các khái niệm, các hình minh họa trong mỗi bài giảng, khi làm văn cũng sẽ không biết miêu tả một cách sinh động. Trí tưởng tượng còn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển về sức sáng tạo của con người, trong khi những phát minh nổi tiếng trên thế giới đều bắt đầu từ trí tưởng tượng mà thành.
Tôi hay tự hỏi tại sao người Phương Tây (Đức, Pháp, Anh...) từ cách đây hàng trăm, hàng nghìn năm lại có thể viết những tác phẩm triết học, kinh tế và khoa học tinh hoa đến thế, chỉ kể một số ví dụ như Của cải của các dân tộc (A. Smith), Các nguyên lý triết học của khoa học tự nhiên (Newton), Bách khoa thư các khoa học triết học (Hegel)... Không những thế, họ còn xây dựng lên những công trình, những thành phố, vẽ những bức tranh, và có những sáng chế công nghệ đáng ngưỡng mộ. Người Mỹ cũng chính là con cháu của những người Châu u di cư, họ tiếp nhận di sản trí tuệ của tổ tiên và dựa trên đó tiếp tục phát triển triết học, khoa học và công nghệ mang sắc thái của những người di cư đi tìm cuộc sống những vùng đất mới - tính hiệu quả và thực dụng chẳng hạn. Do đó mà người Mỹ có thực dụng luận, tư duy thực dụng của người Mỹ nổi tiếng thế giới rồi.
Tôi thường đọc triết học cổ điển Đức khi rảnh rỗi, thường đọc nhưng những gì hiểu được thật sự không nhiều, triết học Đức quá khó, quá tư biện. Nhưng một số thứ hiểu được thì khá có ích cho tư duy của tôi. Ví dụ đoạn dưới đây trích từ tác phẩm của một triết gia Đức giúp tôi tìm được câu trả lời cho thắc mắc trên: Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn làm một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Những điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi. Cuối quá trình lao động, người lao động thu được cái kết quả mà họ đã hình dung ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi. Còn nhớ cảm giác lần đầu tiên đọc đến đoạn đó, tôi đã “òa” lên một tiếng, đây chính là đặc trưng cho cách làm việc của con người, mọi thứ do con người làm ra đều chỉ là hiện thực hóa tư duy của con người, mọi hành vi của con người đều chỉ là sự thể hiện ra bên ngoài suy nghĩ của con người mà thôi, Có thể nhận xét rằng sản phẩm của anh tinh tế thế nào thì tư duy của anh tinh tế thế ấy nhưng điều ngược lại thì không chắc đúng. Vì vậy, phát triển tư duy là điều kiện cho sự phát triển kinh tế, nhưng trong tư duy của con người thì cần ưu tiên phát triển trí tưởng tượng (một cách tương đối) hơn là trau dồi sự hiểu biết (trau dồi tri thức), do trí tưởng tượng là cái làm ra tương lai, còn tri thức là cái được đúc kết lại từ quá khứ. Con người chỉ có thể phát triển bằng cách làm ra một cái gì đó ít nhất là khác với hiện tại và quá khứ làm ra một cái mới. Những cái mới liên tiếp nhau sẽ tạo ra sự phát triển. Mà cái mới chỉ có thể xuất hiện trước hết trong trí tưởng tượng mà thôi. Muốn thúc đẩy sự phát triển của trí tưởng tượng thì con người cần không gian tự do, tự do tư duy, tự do hành động trong khuôn khổ của văn hóa lành mạnh.
Có thể nhận xét rằng thế giới phương Tây đã tạo điều kiện tốt nhất cho sự tự do của con người, từ đó thúc đẩy sự đa dạng trong tư duy của người phương Tây, thúc đẩy sự phát triển của trí tưởng tượng theo mọi hướng có thể có. Mọi tác phẩm hay mọi công trình tinh hoa của người phương Tây mà chúng ta có thể đọc hay nhìn ngắm hiện nay đều đã từng là tương lai trong suốt thời gian trước khi chúng được viết ra hoặc được xây dựng lên. Trước hết, chúng phải được thai nghén trong trí tưởng tượng của các tác giả của chúng, sau đó chúng mới được hiện thực hóa và có hình hài như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Đối với học sinh, sinh viên chúng ta, thực ra trong quá trình học tập rất cần đến trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng phong phú giúp ta có thể hiểu bài, hiểu những môn học trừu tượng một cách nhanh chóng và sâu sắc.
Bạn hãy thử nghĩ xem, bạn học môn Văn mà không có trí tưởng tượng, sao bạn có thể cảm thụ các tác phẩm một cách sâu sắc nhất. Giả như học văn mà không tưởng tượng, liệu bạn có thể hiểu được hoàn cảnh của Kiều khi phải bán mình chuộc cha. Bạn không hề hiểu về xã hội và giá trị con người, giá trị đồng tiền trong xã hội đó nên bạn không thể hiểu được nỗi khổ của Kiều khi phải bán mình. Vì không có trí tưởng tượng, bạn luôn đạt những tình huống trong văn thơ vào cuộc sống thật - nơi bạn được sống, được biết những thực tế, nắm bắt sự việc rồi kết luận cách sống, cách làm của nhân vật là sai. Chính vì thế, điểm mấu chốt của việc học văn là bạn cần có trí tưởng tượng phong phú để có thể hiểu tác phẩm một cách sâu sắc.
Môn Văn là vậy, còn môn toán thì sao? Nếu không có trí tưởng tượng và tư duy sắc bén, liệu bạn có học được hình học không gian? Môn học này đòi hỏi có sự tưởng tượng tinh tế, và mọi cuộc khảo sát đều cho thấy rằng, những người học tốt bộ môn tự nhiên bao giờ cũng là những người có trí tưởng tượng tốt.
Việc học thực ra rất cần đến trí tưởng tượng, không chỉ một, hai môn mà ở tất cả các bộ môn, trí tưởng tượng đều đóng vai trò hết sức quan trọng. Trí tưởng tượng giúp bạn có thể hiểu bài sâu hơn, nắm bài chắc hơn. Và thiếu sức tưởng tượng, quả thật tri thức không có tiềm năng phát triển.
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo
- Tuần 1 sgk ngữ văn 10
- Tuần 2 sgk ngữ văn 10
- Tuần 3 sgk ngữ văn 10
- Tuần 4 sgk ngữ văn 10
- Tuần 5 sgk ngữ văn 10
- Tuần 6 sgk ngữ văn 10
- Tuần 7 sgk ngữ văn 10
- Tuần 8 sgk ngữ văn 10
- Tuần 9 sgk ngữ văn 10
- Tuần 10 sgk ngữ văn 10
- Tuần 11 sgk ngữ văn 10
- Tuần 12 sgk ngữ văn 10
- Tuần 13 sgk ngữ văn 10
- Tuần 14 sgk ngữ văn 10
- Tuần 15 sgk ngữ văn 10
- Tuần 16 sgk ngữ văn 10
- Tuần 17 sgk ngữ văn 10
- Tuần 18 sgk ngữ văn 10
- Tuần 19 sgk ngữ văn 10
- Tuần 20 sgk ngữ văn 10
- Tuần 21 sgk ngữ văn 10
- Tuần 22 sgk ngữ văn 10
- Tuần 23 sgk ngữ văn 10
- Tuần 24 sgk ngữ văn 10
- Tuần 25 sgk ngữ văn 10
- Tuần 26 sgk ngữ văn 10
- Tuần 27 sgk ngữ văn 10
- Tuần 28 sgk ngữ văn 10
- Tuần 29 sgk ngữ văn 10
- Tuần 30 sgk ngữ văn 10
- Tuần 31 sgk ngữ văn 10
- Tuần 32 sgk ngữ văn 10
- Tuần 33 sgk ngữ văn 10
- Tuần 34 sgk ngữ văn 10
- Tuần 35 sgk ngữ văn 10