Đề số 37: Phân tích nội dung yêu nước qua các tác phẩm viết về lịch sử đã học (những trích đoạn từ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên)
Từ những trích đoạn trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc một trong những nội dung quan trọng của văn học Việt Nam thời trung đại: tinh thần yêu nước.
- Bài học cùng chủ đề:
- Đề số 36: Phân tích hình ảnh Trần Quốc Tuấn trong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư).
- Đề số 35: Phân tích nghệ thuật lập luận kết hợp với biểu cảm của trong bài Tựa “Trích diễm thi tập”
- Đề số 31: Phân tích Bình Ngô đại cáo để chứng minh cho nghệ thuật chính luận tài tình của Nguyễn Trãi.
- Ngữ pháp tiếng anh hay nhất
Bài làm
Thời trung đại, văn - sử - triết bất phân là hiện tượng thường thấy trong một văn bản ngôn từ. Đó cũng chính là lý do khiến nhiều câu chuyện lịch sử lại có giá trị văn học lớn lao. Từ những trích đoạn trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc một trong những nội dung quan trọng của văn học Việt Nam thời trung đại: tinh thần yêu nước.
Cùng với lòng nhân đạo, yêu nước là một trong các phẩm chất tuyệt đẹp của con người Việt Nam mọi thời đại. Một trong những biểu hiện của yêu nước là lòng tự hào dân tộc. Các trích đoạn Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Thái sư Trần Thủ Độ thể hiện một cách sâu sắc niềm tự hào của Ngô Sĩ Liên về những bậc anh hùng dân tộc, những điển hình yêu nước tiêu biểu của nhân dân, đất nước. Niềm tự hào đó được thể hiện trong nghệ thuật xây dựng nhân vật và cảm hứng ngợi ca nhân cách tuyệt đẹp của Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ.
Trong Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Ngô Sĩ Liên đã xây dựng một bức chân dung tuyệt đẹp về một con người toàn đức toàn tài.
Qua lời phân tích cặn kẽ với vua về cách đánh giặc, cách giữ nước khi ông lâm bệnh, bất cứ ai cũng nhận thấy tinh thần hết lòng lo tính kế sách giúp vua giữ nước an dân của Quốc Tuấn. Suốt cuộc đời, Trần Quốc Tuấn đã thờ trọn chữ “trung”. Lòng trung của ông được đặt trong hoàn cảnh thử thách đặc biệt. Trần Quốc Tuấn không quên mối hiềm khích giữa cha ông (An Sinh Vương) và Trần Thái Tông. Ông cũng không quên lời dặn dò của cha mình trước khi lâm chung. Bản thân ông cũng bị đặt trong mối mâu thuẫn giữa “hiếu” và “trung”. Nhưng khi được nắm binh quyền trong tay, Trần Quốc Tuấn đã đặt “trung” lên trước “hiếu”, đặt nợ nước lên trên tình nhà. Hay nói cách khác, ông đã không hiểu chữ “hiếu” một cách cứng nhắc. “Trung” và “hiếu” đều bị chi phối bởi nghĩa lớn đối với đất nước. Thái độ của Trần Quốc Tuấn đối với Yết Kiêu, Dã Tượng (cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người), đối với Hưng Vũ Vương (ngẫm cho là phải) và đối với Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng (rút gươm kể tội) khi nghe câu trả lời của họ càng tôn thêm tấm lòng trung nghĩa của ông. Có thể nhận thấy ở Trần Quốc Tuấn tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước.
Lòng trung quân ái quốc của Trần Quốc Tuấn lại đi cùng với tài năng mưu lược. Ông đã phò giúp hai vị vua nhà Trần chống giặc ngoại xâm, trấn an nhân dân. Tài đức của ông khiến quân giặc phương Bắc còn phải kính cẩn, nể sợ: Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Vương Vương Trần Quốc Tuấn mà không dám gọi tên. Ông để lại câu nói đầy dũng khí: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng” và cống hiến cho đời sau những tác phẩm quân sự có giá trị (Binh gia diệu lí yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư). Qua cách ông trình bày với vua về thời thế, tương quan ta - địch, sách lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là chú trọng đoàn kết sức mạnh toàn dân,có thể thấy rõ tầm nhìn sáng suốt, xa rộng của vị tướng tài ba.
Không chỉ trung quân ái quốc, tài năng mưu lược, Trần Quốc Tuấn còn người có đức độ lớn lao. Dù được vua trọng đãi rất mực nhưng ông luôn khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết làm tôi. Ông chủ trương khoan thư sức dân, vì hiểu dân là gốc của nước. Ông tận tình với tướng sĩ dưới quyền, soạn sách dạy bảo, khích lệ, ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Giã Tượng, Yết Kiêu, là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dủ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. Ông cẩn thận tính toán phòng xa việc hậu sự của mình. Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, ông còn linh hiển phù trợ dân chống lại tai nạn, dịch bệnh: Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào căng thẳng lớn.
Cuộc đời Trần Quốc Tuấn có bao nhiêu câu chuyện đáng được kể đều nêu gương nhưng người viết đã biết chọn lọc những câu chuyện tiêu biểu nhất, hàm súc nhất để ngợi ca vẻ đẹp nhân cách của ông. Không có một sự thấu suốt, am hiểu, không có thái độ tôn kính, Ngô Sĩ Liên không thể viết nên câu chuyện ngắn mà thấm đượm niềm tư hàn như thế.
Một nhân vật lịch sử khác được Ngô Sĩ Liên lựa chọn để ngợi ca chính là Trần Thủ Độ. Khác với cách xây dựng chân dung Trần Quốc Tuấn, ở hình tượng này, tác giả lại đặt nhân vật của mình vào những hoàn cảnh có phần gai góc để nhân vật tự bộc lộ mình. Khi có người mặc tội chuyên quyền của Trần Thủ Độ với vua, Trần Thủ Độ không những không biện bạch cho bản thân và tỏ lòng thù oán, tìm cách trừng trị mà còn công nhận lời nói phải, lại còn thưởng cho người dám dũng cảm vạch tội lỗi của mình. Qua đó có thể thấy ông là người phục thiện, công minh, độ lượng và có bản lĩnh.
Nghe Lĩnh Tử Quốc Mẫu khóc và mách về tên quân hiệu không cho đi qua thềm cấm, Trần Thủ Độ không bênh vợ bắt tội tên quân hiệu mà tìm hiểu rõ sự việc rồi còn khen thưởng kẻ giữ đúng luật pháp. Câu chuyện thứ hai này thể hiện sự chí công vô tư, tôn trọng pháp luật, không thiên vị người thân trong nhân cách Trần Thủ Độ.
Có người chạy chọt nhờ Linh Từ Quốc Mẫu xin cho làm chức câu đương - một chức dịch nhỏ trong xã, nhưng ông đã dạy cho tên này một bài học: muốn làm chức quan ấy hắn phải chịu bị chặt một ngón chân để phân biệt với những người khác do xứng đáng mà được cử. Qua đó có thể thấy ông giữ gìn sự công bằng của phép nước, bài trừ tệ nạn chạy chọt, đút lót, dựa dẫm thân thích.
Và chuyện thứ tư, vua muốn phong chức tướng cho An Quốc, anh của Trần Thủ Độ, nhưng ông thẳng thắn trình bày quan điểm: chỉ nên chọn lựa người giỏi nhất, không nên hậu đãi cổ hai anh em sẽ làm rối việc triều đình. Câu chuyện cho thấy Trần Thủ Độ luôn đặt việc công lên trên, không tư lợi, gây bè kéo cánh.
Có thể nói chí công vô tư, thẳng thắn, cầu thị, độ lượng, nghiêm minh là những phẩm chất đáng quý trong nhân cách Trần Thủ Độ khiến tác giả Đại Việt sử ký toàn thư không thể không đề cao, kính mến. Những phẩm chất của Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ là những phẩm chất làm nên nhân cách bất tử, vĩ đại của hai người con trong lòng dân tộc.
Những câu chuyện ngắn của Ngô Sĩ Liên đã khắc họa chân dung nhân cách tuyệt đẹp của hai con người. Thái độ tự hào, ngợi ca, kính trọng công đức, tài trí đối với Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ chính là biểu hiện lòng yêu nước của sử gia vĩ đại. Cùng với nhiều sáng tác thơ văn khác, Đại Việt sử ký toàn thư nói chung và hai trích đoạn nói riêng đã làm nên diện mạo nội dung yêu nước của văn học trung đại Việt Nam.
- Một số tác giả, tác phẩm văn học tham khảo
- Tuần 1 sgk ngữ văn 10
- Tuần 2 sgk ngữ văn 10
- Tuần 3 sgk ngữ văn 10
- Tuần 4 sgk ngữ văn 10
- Tuần 5 sgk ngữ văn 10
- Tuần 6 sgk ngữ văn 10
- Tuần 7 sgk ngữ văn 10
- Tuần 8 sgk ngữ văn 10
- Tuần 9 sgk ngữ văn 10
- Tuần 10 sgk ngữ văn 10
- Tuần 11 sgk ngữ văn 10
- Tuần 12 sgk ngữ văn 10
- Tuần 13 sgk ngữ văn 10
- Tuần 14 sgk ngữ văn 10
- Tuần 15 sgk ngữ văn 10
- Tuần 16 sgk ngữ văn 10
- Tuần 17 sgk ngữ văn 10
- Tuần 18 sgk ngữ văn 10
- Tuần 19 sgk ngữ văn 10
- Tuần 20 sgk ngữ văn 10
- Tuần 21 sgk ngữ văn 10
- Tuần 22 sgk ngữ văn 10
- Tuần 23 sgk ngữ văn 10
- Tuần 24 sgk ngữ văn 10
- Tuần 25 sgk ngữ văn 10
- Tuần 26 sgk ngữ văn 10
- Tuần 27 sgk ngữ văn 10
- Tuần 28 sgk ngữ văn 10
- Tuần 29 sgk ngữ văn 10
- Tuần 30 sgk ngữ văn 10
- Tuần 31 sgk ngữ văn 10
- Tuần 32 sgk ngữ văn 10
- Tuần 33 sgk ngữ văn 10
- Tuần 34 sgk ngữ văn 10
- Tuần 35 sgk ngữ văn 10